Bản án 20/2021/HS-ST ngày 27/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TR C, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 20/2021/HS-ST NGÀY 27/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện TrC, tỉnh Trà Vinh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 18/2021/TLST-HS ngày 06 tháng 4 năm 2021; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2021/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

1. Nguyễn Thanh Tr (tên gọi khác: L), sinh năm 1988 tại Trà Vinh. Nơi cư trú ấp Ch, xã LNghA, huyện TrC, tỉnh Trà Vinh; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới Th: Nam; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Kh (chết) và bà Dư Thị Ng, sinh năm 1966; bị cáo có vợ tên Thạch Thị Trúc L, sinh năm 1994 (đã ly hôn) và 01 người con sinh năm 2012; tiền án: không, tiền sự: 02 tiền sự về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Cụ thể: Vào ngày 17/12/2020 bị cáo Tr bị Công an xã LNghA huyện Tr C xử phạt vi phạm hành chính số tiền 750.000 đồng theo Quyết định số: 01/QĐ-XPHC và ngày 22/01/2021 bị Công an xã NghA,huyện TrC xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.000.000 đồng theo Quyết định số: 11/QĐ-XPHC; nhân thân: xấu; bị bắt quả tang ngày 06/3/2021, bị khởi tố và tạm giam từ ngày 08/3/2021 đến nay, có mặt.

2. Hồ Trung T, sinh ngày 26/8/1996 tại Trà Vinh. Nơi cư trú ấp Ch, xã LNghA, huyện TrC, tỉnh Trà Vinh; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa (học vấn): 8/12; dân tộc: Kinh; giới Th: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hồ Minh T, sinh năm 1967 và bà Lâm Thị Hồng L, sinh năm 1968; bị cáo chưa có vợ con; tiền án: không, tiền sự: 03 tiền sự về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Cụ thể: Vào ngày 20/10/2020 bị Công an xã LNghA, huyện TràC xử phạt vi phạm hành chính số tiền 750.000 đồng theo Quyết định số: 24/QĐ-XPHC; ngày 11/11/2020 bị cáo T bị Công an xã LNghA, huyện TrC xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 1.000.000 đồng theo Quyết định số: 25/QĐ-XPHC. Ngày 05/01/2021, tiếp tục bị Ủy ban nhân dân xã LnghA,huyện TrC ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã trong thời hạn 03 tháng (để cai nghiện tự nguyện tại gia đình) theo quyết định số: 270/QĐ-UBND; nhân thân: xấu; bị bắt quả tang ngày 06/3/2021, bị khởi tố và tạm giam từ ngày 08/3/2021 đến nay, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Cáo trạng số 23/CT-VKS-HS ngày 05 tháng 4 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TrC, tỉnh Trà Vinh truy tố bị cáo Nguyễn Thanh Tr, Hồ Trung T về tội “tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Hành vi các bị cáo bị truy tố như sau:

Bị cáo Nguyễn Thanh Tr và bị cáo Hồ Trung T thường xuyên sử dụng trái phép chất ma túy chung. Để có ma túy sử dụng, vào đêm ngày 05 tháng 3 năm 2021, bị cáo Tr đến nhà bị cáo T rủ bị cáo T đi mua ma túy về để cùng nhau sử dụng, bị cáo T đồng ý và thống nhất hùn mua số tiền 300.000 đồng (bị cáo T 150.000 đồng, bị cáo Tr 150.000 đồng) do bị cáo T không có tiền nên bị cáo Tr ra tiền trước, khi nào có bị cáo T trả lại cho bị cáo Tr sau. Sau đó, bị cáo Tr điều khiển xe mô tô của gia đình mình, biển số: 84F6-1515, chở bị cáo T đi đến khu vực thị trấn Tr C, huyện TrC định mua ma túy của Lâm Hồng H (tên thường gọi là Bé B), sinh năm 1995, cư trú tại khóm 4, thị trấn TrC, huyện TrC.

Khi đến trước cổng Kho bạc Nhà nước huyện TrC, thuộc khóm 4, thị trấn Tr C, bị cáo Tr dừng xe lại, kêu bị cáo T ngồi ngoài giữ xe, còn bị cáo Tr đi vào con hẻm dẫn đến nhà của H để mua ma túy. Nhưng bị cáo Tr đi chưa đến nhà H mà chỉ đến đầu hẻm, lúc này bị cáo Tr gặp một người phụ nữ khoảng 20 tuổi (tên thường gọi là Nhỏ M), bị cáo Tr hỏi người phụ nữ này có ma túy không, người phụ nữ trả lời có, bị cáo Tr hỏi mua thì người phụ nữ đồng ý bán, bị cáo Tr không mua 300.000 đồng như thỏa thuận ban đầu với bị cáo T mà mua 800.000 đồng. Mua ma túy xong, bị cáo Tr đi ra chỗ đậu xe mô tô, nói cho bị cáo T biết đã mua được ma túy với số tiền 800.000 đồng (tức tiền hùn mua túy của mỗi người là 400.000 đồng, không phải là 150.000 đồng như ban đầu thỏa thuận), bị cáo T chấp nhận, hứa khi nào có tiền sẽ trả lại. Bị cáo Tr chở bị cáo T về nhà của bị cáo Tr lấy bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm bật lửa, chai nhựa có gắn ống hút và nỏ bằng thủy tinh. Lấy dụng cụ xong, hai bị cáo Tr, T tiếp tục chạy xe đến Đình Nguyễn Trung Tr thuộc ấp Ch, xã LNghA, huyện TrC, tỉnh Trà Vinh để cùng nhau sử dụng ma túy.

Đến nơi, bị cáo Tr lấy ma túy mua được cho vào nỏ một ít định sử dụng, nhưng lúc này bị cáo T kêu bị cáo Tr chở đi mua card điện thoại tại ấp Lưu Cừ 1, xã L NghA, bị cáo Tr đồng ý, bị cáo Tr đem toàn bộ dụng cụ sử dụng ma túy cất giấu ở khu vực Đình, số ma túy còn lại bị cáo Tr cất giấu vào trong túi quần trước, bên phải rồi điều khiển xe chở bị cáo T đến tiệm tạp hóa của bà Ngô Thị B Tr để mua card điện thoại. Đến khoảng 00 giờ 05 phút ngày 06/3/2021, khi lực lượng Công an huyện TrC cùng Công an xã LNghA đang tuần tra, đi ngang qua nhìn thấy hai bị cáo có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra, kết quả phát hiện bị cáo Tr cất giấu trong túi quần phía trước bên phải 01 (một) bịch nhựa có viền màu đỏ, được hàn kín, bên trong có chứa tinh thể trong suốt nghi là ma túy, bị cáo Tr và bị cáo T khai nhận số ma túy trên vừa mua xong tại thị trấn TrC mang về nhằm mục đích sử dụng nhưng chưa được sử dụng thì bị phát hiện, Công an tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với bị cáo Nguyễn Thanh Tr và bị cáo Hồ Trung T và tạm giữ đồ vật có liên quan.

Căn cứ vào Bản kết luận giám định số: 141/KLGĐ ngày 08/3/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Trà Vinh kết luận: Tinh thể chứa trong 01 (một) bịch nhựa trong suốt có viền màu đỏ được hàn kín được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamin; khối lượng 0,7192 gam.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TrC đã ra Quyết định tạm giữ đồ vật tài liệu gồm: Tinh thể có khối lượng 0,6889 gam (do trong quá trình giám định cơ quan giám định đã sử dụng 0,0303 gam) được niêm trong phong bì ngày 08/3/2021, ký hiệu số: 141/MA và 01 (một) chai nhựa trong suốt cao 15cm, không có nắp, cổ chai có vòng tròn màu vàng. Riêng đối với cây nỏ bằng thủy tinh, ông hút màu trắng được gắn chung với nắp vỏ chai màu vàng và cái bật lửa bằng nhựa màu đỏ thì cơ quan công an không thu giữ được vì bị thất lạc, mất. Do trong Đình thường có các đối tượng sử dụng ma túy vào chơi.

Riêng đối với người phụ nữ có tên gọi (Nhỏ M) có hành vi bán trái phép chất ma túy cho bị cáo Tr vào ngày 05/3/2021, do bị cáo Tr không xác định được họ tên và địa chỉ cụ thể, đầy đủ của người này; cũng như qua quá trình xác minh được biết trên địa bàn khóm 4, thị trấn TrC không người nào có tên gọi trên. Riêng bà Lâm Hồng H (người mà bị cáo Tr dự định đi mua ma túy mang về sử dụng) hiện đã bỏ địa phương đi từ giữa tháng 3/2021 nên Cơ quan điều tra chưa mời làm việc được. Quá trình điều tra làm rõ sẽ xử lý sau.

Đối với bà Dư Thị Ng là mẹ ruột của bị cáo Tr. Thường ngày bà Ng là người quản lý, sử dụng chiếc xe mô tô biển số: 84F6-1515. Vào đêm 05/3/2021, lợi dụng lúc bà Ng đã ngủ, bị cáo Tr tự ý lấy xe mô tô trên điều khiển chở bị cáo T đi mua ma túy, việc bị cáo Tr lấy xe mô tô làm phương tiện đi mua ma túy bà Ng hoàn toàn không biết. Do đó không có cơ sở xem xét xử lý đối với bà Ng.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thanh Tr và bị cáo Hồ Trung T khai nhận vào đêm 05 tháng 3 năm 2021 hai bị cáo có thống nhất thỏa thuận hùn tiền mua ma túy mục đích là để sử dụng thì bị bắt quả tang đúng như cáo trạng truy tố.

Kiểm sát viên giữ quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh Tr và bị cáo Hồ Trung T phạm tội “tàng trữ trái phép chất ma túy”; đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh Tr từ 02 năm tù đến 03 năm tù; đề nghị xử phạt bị cáo Hồ Trung T từ 01 năm 06 tháng tù đến 02 năm 06 tháng tù. Về vật chứng đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy toàn bộ chất ma túy thu giữ được (sau khi giám định) cùng toàn bộ dụng cụ để sử dụng ma túy.

Bị cáo Nguyễn Thanh Tr và bị cáo Hồ Trung T không tự bào chữa mà chỉ xin giảm nhẹ hình phạt.

Bị cáo Nguyễn Thanh Tr nói lời sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm về gia đình.

Bị cáo Hồ Trung T nói lời sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm về gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Căn cứ vào biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 06/3/2021 của Công an huyện TrC thì có đủ chứng cứ xác định vào lúc 00 giờ 15 phút, ngày 06/3/2021 tại ấp LC I, xã LNghiA, huyện TrC, tỉnh Trà Vinh, bị cáo Nguyễn Thanh Tr đã có hành vi tàng trữ 0,7192 gam chất ma túy, loại Methamphetamine. Vị trí bị cáo Tr cất giấu ma túy là trong túi quần trước, bên phải nhằm mục đích để bị cáo Tr và bị cáo T sử dụng chung (do cả hai bị cáo đều nghiện ma túy) thì bị bắt quả tang, đây là sự việc có thật.

[2] Căn cứ vào Bản kết luận giám định số: 141/KLGĐ ngày 08/3/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Trà Vinh kết luận: Tinh thể chứa trong 01 (một) bịch nhựa trong suốt có viền màu đỏ được hàn kín được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamin; khối lượng 0,7192 gam. Tại phiên tòa, các bị cáo khai việc cất giấu số ma túy nói trên nhằm mục đích sử dụng, không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển hay sản xuất trái phép chất ma túy. Tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định “Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”:

c) … Methamphetamine có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam. Quá trình kiểm tra chất ma túy trong cơ thể bị cáo Tr, bị cáo T vào ngày 06/3/2021 thì kết quả xét nghiệm là bị cáo Tr và bị cáo T đều dương Th với chất ma túy.

Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận, ban đầu chỉ thỏa thuận hùn tiền 300.000 đồng để mua ma túy nhưng sau khi bị cáo Tr mua ma túy với số tiền 800.000 đồng và thông báo cho bị cáo T biết nhưng bị cáo T không có ý kiến phản đối mà thống nhất hùn mua với số tiền 800.000 đồng. Do đó, bị cáo T phải chịu trách nhiệm hình sự với vai trò đồng phạm về khối lượng ma túy thu giữ bằng 0,7192 gam. Như vậy, việc bị cáo Tr, bị cáo T tàng trữ trái phép 0,7192 gam ma túy, loại Methamphetamime để sử dụng mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển hay sản xuất trái phép chất ma túy là đã phạm vào tội “tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] Hành vi của các bị cáo thực hiện là nghiêm trọng, hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của các bị cáo đã vi phạm quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy. Bị cáo Nguyễn Thanh Tr và bị cáo Hồ Trung T là người có đủ có năng lực trách nhiệm hình sự và đã thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Bị cáo Nguyễn Thanh Tr và bị cáo Hồ Trung T là người có nhân thân xấu, các bị cáo đã nhiều lần bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, đã được giáo dục, nhắc nhở nhưng vẫn còn vi phạm. Bị cáo Tr là người có vai trò chính trong vụ án, là người đến nhà bị cáo T rủ rê, lôi kéo bị cáo T, bị cáo Tr xuất tiền ra trước để mua ma túy và trực tiếp điều khiển xe chở bị cáo T đi mua ma túy về sử dụng chung. Việc bị cáo Tr, bị cáo T trực tiếp sử dụng trái phép chất ma túy đã góp phần tạo ra một lớp người nghiện trên địa bàn huyện TrC, qua đó đe dọa nghiêm trọng đến an toàn, trật tự công cộng, gây ảnh hưởng sức khỏe và sự phát triển lành mạnh của chính bản thân các bị cáo cũng như ảnh hưởng đến trật tự, trị an xã hội tại địa phương. Hội đồng xét xử xét thấy cần xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh Tr và bị cáo Hồ Trung T mức án tù như đại diện Viện kiểm sát đề nghị, để cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm để giáo dục cho các bị cáo và để răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các bị cáo có thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về vật chứng: Chất ma túy thu giữ được (sau khi đã lấy ra một phần để giám định) là chất cấm sử dụng và các dụng cụ dùng để sử dụng trái phép chất ma túy là vật cấm lưu hành. Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự cần tịch thu để tiêu hủy.

[6] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thanh Tr và bị cáo Hồ Trung T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Đối với người phụ nữ có tên gọi (Nhỏ M) có hành vi bán trái phép chất ma túy cho bị cáo Tr vào ngày 05/3/2021, do bị cáo Tr không xác định được họ tên và địa chỉ cụ thể, đầy đủ của người này; quá trình xác minh trên địa bàn khóm 4, thị trấn Tr C không người nào có tên gọi trên. Riêng bà Lâm Hồng H hiện đã bỏ địa phương đi từ giữa tháng 3/2021 nên Cơ quan điều tra chưa mời làm việc được, yêu cầu Cơ quan điều tra làm rõ để xử lý sau. Đối với bà Dư Thị Ng là mẹ ruột của bị cáo Tr. Thường ngày bà Ng là người quản lý, sử dụng chiếc xe mô tô biển số: 84F6-1515. Vào đêm 05/3/2021, lợi dụng lúc bà Ng đã ngủ, bị cáo Tr tự ý lấy xe mô tô trên điều khiển chở bị cáo T đi mua ma túy, việc bị cáo Tr lấy xe mô tô làm phương tiện đi mua ma túy bà Ng hoàn toàn không biết. Do đó không có cơ sở xem xét xử lý đối với bà Ng.

[8] Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã thẩm tra các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố và thấy rằng các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên là đúng quy định pháp luật. Những người tham gia tố tụng không có ai khiếu nại về hành vi, các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Vì vậy, các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, hành vi của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong, biên bản mở niêm phong, kết luận giám định, biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung các bị can, các biên bản hoạt đồng điều tra của Cơ quan điều tra, biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản phúc cung của Kiểm sát viên… thu thập là đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nên hợp pháp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thanh Tr và bị cáo Hồ Trung T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thanh Tr 02 (hai) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù Th từ ngày 06 tháng 3 năm 2021.

Xử phạt: Bị cáo Hồ Trung T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù Th từ ngày 06 tháng 3 năm 2021.

Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy tinh thể có khối lượng 0,6889 gam (do trong quá trình giám định cơ quan giám định đã sử dụng 0,0303 gam) được niêm trong phong bì ngày 08/3/2021, ký hiệu số: 141/MA và 01 (một) chai nhựa trong suốt cao 15cm, không có nắp, cổ chai có vòng tròn màu vàng.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Thanh Tr và bị cáo Hồ Trung T mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Thanh Tr và bị cáo Hồ Trung T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

140
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 20/2021/HS-ST ngày 27/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:20/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trà Cú - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về