Bản án 20/2021/HNGĐ-ST ngày 21/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN - THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 20/2021/HNGĐ-ST NGÀY 21/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 21 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 848/2020/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 11 năm 2020 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 305/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 07/2021/QĐST-HNGĐ ngày 14 tháng 01 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Vũ Thị H, sinh năm 1988; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Đ, xã H, huyện T, thành phố Hải Phòng; nơi ở hiện nay: Khu Đ, phường H, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh. Có mặt.

- Bị đơn: Anh Trần Hữu C, sinh năm 1979; nơi cư trú: Thôn Đ, xã H, huyện T, thành phố Hải Phòng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Chị Vũ Thị H là nguyên đơn, khởi kiện với nội dung: Chị kết hôn với anh Trần Hữu C trên cơ sở được tìm hiểu tự nguyện, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện T, thành phố Hải Phòng vào ngày 19 tháng 10 năm 2009. Sau lễ cưới, chị về chung sống cùng với anh C tại thôn Đ, xã H, huyện T, thành phố Hải Phòng. Cuộc sống chung vợ chồng hòa thuận, đôi lúc cũng nảy sinh những mâu thuẫn trong sinh hoạt hàng ngày nhưng chị H và anh C vẫn chung sống cùng nhau, đến năm 2018 mâu thuẫn trở nên trầm trọng, nguyên nhân là do vợ chồng tính tình không hòa hợp, không tôn trọng lẫn nhau; bất đồng quan điểm trong việc nuôi dạy con cái. Chị H và anh C đã xảy ra cãi mắng, xúc phạm lẫn nhau nhiều lần trước mặt các con. Chán nản, chị H đưa con về nhà bố mẹ đẻ ở từ cuối năm 2018, vợ chồng sống ly thân cho đến nay. Gia đình đã động viên hòa giải nhưng tình cảm vợ chồng vẫn không được cải thiện. Nay, nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn khả năng đoàn tụ, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh Trần Hữu C. Chị H và anh C có 01 con chung tên Trần Thị Như B, sinh ngày 11 tháng 7 năm 2010. Khi ly hôn, chị H đề nghị được tiếp tục nuôi dưỡng con chung. Chị và anh C tự thỏa thuận về cấp dưỡng nuôi con, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tài sản chung, chị và anh C không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản.

Anh Trần Hữu C là bị đơn, đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng, song đến ngày mở phiên tòa, anh C vẫn không có ý kiến về việc chị Vũ Thị H xin ly hôn.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng như sau: Về thẩm quyền giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên đã tuân theo đúng quy định của pháp luật quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 147, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị Vũ Thị H được ly hôn anh Trần Hữu C; đề nghị giao con Trần Thị Như B, sinh ngày 11 tháng 7 năm 2010 cho chị Vũ Thị H trực tiếp nuôi dưỡng. Người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Nguyên đơn nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng

Bị đơn là anh Trần Hữu C đã được tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về yêu cầu của chị Vũ Thị H ly hôn với anh Trần Hữu C Chị H và anh C kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đủ điều kiện kết hôn và có đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Do đó, kết hôn giữa chị H và anh C là hợp pháp. Tài liệu xác minh tại Ủy ban nhân dân xã Hoa Động và tại gia đình anh Trần Hữu C thể hiện, chị H và anh C chung sống hòa thuận đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng tính tình không hòa hợp, giữa các thành viên trong gia đình không có sự chia sẻ và thông cảm. Anh C thiếu chăm lo xây dựng kinh tế gia đình, vợ chồng xảy ra cãi nhau thường xuyên. Chị H đưa con về nhà bố mẹ đẻ ở từ cuối năm 2018, anh C có tìm gọi song chị H không về đoàn tụ, cho thấy giữa chị H và anh C không có sự gắn kết một gia đình. Mặt khác, từ khi vợ chồng ly thân cho đến nay là một khoảng thời gian dài đủ để vợ chồng cải thiện tình cảm nhưng chị H vẫn khẳng định không còn tình cảm vợ chồng với anh C và giữ nguyên đề nghị được ly hôn với anh C. Xuất phát từ thực tế, hôn nhân hạnh phúc là phải xuất phát từ tình cảm yêu thương của cả vợ và chồng. Từ những chứng cứ nêu trên cho thấy mâu thuẫn giữa chị H và anh C đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị H xin ly hôn anh C.

[3] Về người trực tiếp nuôi con khi ly hôn và nghĩa vụ cấp dưỡng cho con Chị H và anh C có 01 con chung tên Trần Thị Như B, sinh ngày 11 tháng 7 năm 2010. Khi ly hôn, chị H đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Xét thấy, từ khi vợ chồng sống ly thân cho đến nay, chị H là người trực tiếp nuôi con; việc nuôi dưỡng đã ổn định, con chung được chăm sóc, phát triển bình thường về tâm sinh lý và có nguyện vọng được ở cùng với mẹ. Chị H là công nhân, đảm bảo thu nhập ổn định để nuôi con. Căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con, điều kiện, hoàn cảnh của chị H, của anh C, Hội đồng xét xử xét giao cho chị Vũ Thị H trực tiếp nuôi con tên Trần Thị Như B là phù hợp.

Cấp dưỡng nuôi con là nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con. Chị H đề nghị tự thỏa thuận với anh C và không yêu cầu Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con; anh C không có quan điểm về việc cấp dưỡng nuôi con. Xét đề nghị của đương sự là tự nguyện, quyền lợi của con chung vẫn được đảm bảo nên Hội đồng xét xử không giải quyết về cấp dưỡng nuôi con trong vụ án này.

[4] Về tài sản chung, chị Vũ Thị H khai vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Mặt khác không có lời khai của anh Trần Hữu C về tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết về tài sản chung trong vụ án này.

[5] Về án phí, chị Vũ Thị H phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, - Cho chị Vũ Thị H được ly hôn với anh Trần Hữu C.

- Giao cho chị Vũ Thị H trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Trần Thj Như Bình, sinh ngày 11 tháng 7 năm 2010 cho đến khi con chung thành niên và có khả năng lao động, trừ trường hợp có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

- Chị Vũ Thị H phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Đối trừ với số tiền tạm ứng án phí đã nộp (ghi tại biên lai thu số 0015528 ngày 17/11/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên), chị Vũ Thị H đã nộp đủ án phí.

- Chị Vũ Thị H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Trần Hữu C có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7a và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 20/2021/HNGĐ-ST ngày 21/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:20/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về