Bản án 196/2020/HS-ST ngày 08/12/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy và tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 196/2020/HS-ST NGÀY 08/12/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY VÀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 12 năm 2020 tại Nhà Văn hóa khối 6, phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 195/2020/HSST ngày 04 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 206/2020/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 11 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. La Tiến Q (tên gọi khác: Không có), sinh ngày 01 tháng 07 năm 1973 tại tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Đường L, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông La Đức D, sinh năm 1948 (đã chết) và bà Vũ Mộng N, sinh năm 1952; có vợ là Lưu Thị T và 01 con, sinh năm 2003; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 26/10/1998, bị Tòa án nhân dân thị xã Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 02 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy (đã được xóa án tích); bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 30/7/2020 đến nay. Có mặt.

2. Lê Văn H (tên gọi khác: Không có), sinh ngày 06 tháng 6 năm 1984 tại huyện L, tỉnh Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Bản H, xã T, huyện L, tỉnh Lạng Sơn; chỗ ở: Khu P, thị trấn L, huyện L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 9/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Tày; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông Lê Văn T, sinh năm 1963 và bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1961; có vợ là Nông Thị H và 03 con, con lớn nhất sinh năm 2005, con nhỏ nhất sinh năm 2013; tiền án: Có 01 tiền án, ngày 30/7/2018, bị Tòa án nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 07 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 14 tháng về tội Đánh bạc; tiền sự: Không; nhân thân: Đã từng bị kết án, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật; bị bắt tạm giữ từ ngày 29/7/2020, tạm giam từ ngày 01/8/2020 đến nay. Có mặt.

3. Hoàng Văn H (tên gọi khác: Không có), sinh ngày 20 tháng 03 năm 1980 tại huyện L, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Khu P, thị trấn L, huyện L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Tày; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông Hoàng Quốc H, sinh năm 1935 (đã chết) và bà Vi Thị L (đã chết); có vợ là Hoàng Thị L và 02 con, con lớn sinh năm 2008, con nhỏ sinh năm 2020; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 27/3/2014 , bị Tòa án nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 09 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng về tội Buôn lậu (đã được xóa án tích); bị bắt tạm giữ từ ngày 29/7/2020, tạm giam từ ngày 01/8/2020 đến nay. Có mặt.

- Người chứng kiến: Ông Nguyễn Văn L. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 11 giờ 30 phút, ngày 29/7/2020, tại khu vực trước cửa số nhà đường N, phường Đ, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn, tổ công tác Công an thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn bắt quả tang Lê Văn H, Hoàng Văn H có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ trong lòng bàn tay trái của Lê Văn H 01 túi nilon chứa các cục chất bột màu trắng, 01 xe mô tô biển kiểm soát 12L1 - 20591. Tổ công tác đã đưa Lê Văn H và Hoàng Văn H về trụ sở Công an phường Đông Kinh , thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại cơ quan điều tra, Lê Văn H, Hoàng Văn H khai nhận: Ngày 29/7/2020, Lê Văn H gọi điện thoại rủ Hoàng Văn H đi mua ma túy để sử dụng, Lê Văn H điều khiển xe mô tô, biển kiểm soát 12L1 - 20591 đến đón Hoàng Văn H tại khu P, thị trấn L, huyện L, tỉnh Lạng Sơn. Hoàng Văn H điều khiển xe mô tô chở Lê Văn H đi từ thị trấn L, huyện L, tỉnh Lạng Sơn ra thành phố L, tỉnh Lạng Sơn đến nhà của La Tiến Q, tại đường L, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Khi đến nơi, Hoàng Văn H đứng chờ ngoài cửa, Lê Văn H đi vào nhà gặp La Tiến Q mua 01 gói ma túy giá 4.000.000 đồng (tiền mua ma túy của Lê Văn H), Lê Văn H cầm gói ma túy trong lòng bàn tay trái, đi ra chỗ Hoàng Văn H đợi, Lê Văn H nói với Hoàng Văn H đã mua được ma túy rồi cả hai cùng đi về thị trấn L, huyện L, tỉnh Lạng Sơn để sử dụng gói ma túy vừa mua được. Khi đến đường N, phường Đ, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn thì bị lực lượng Công an bắt quả tang.

Trên cơ sở lời khai của Lê Văn H, Hoàng Văn H, cùng ngày 29/7/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lạng Sơn tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của La Tiến Q tại đường L, phường H, thành phố L, thu giữ 01 túi nilon chứa các cục chất bột màu trắng, 01 túi nilon chứa chất bột màu trắng và số tiền 4.401.000 đồng.

Tại cơ quan điều tra, La Tiến Q khai nhận: Ngày 28/7/2020, La Tiến Q đến khu vực C, phường T, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn mua 01 gói ma túy giá 5.000.000 đồng với một người đàn ông tên Q1 (không rõ lai lịch). Sau khi mua được ma túy, La Tiến Q chia nhỏ và cất giấu ma túy tại nhà để bán kiếm lời. Ngày 29/7/2020, tại nhà của La Tiến Q, đã bán cho Lê Văn H 01 gói ma túy giá 4.000.000 đồng. Sau khi Lê Văn H đi khỏi thì lực lượng Công an tiến hành khám xét nơi ở của La Tiến Q thu giữ toàn bộ ma túy.

Tại Kết luận giám định số 232 ngày 30/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn xác định:

Các cục chất bột màu trắng trong túi nilon thu giữ của Lê Văn H là chất ma túy Heroine có khối lượng 3,771 gam.

Các cục chất bột màu trắng trong 01 túi nilon thu giữ tại nơi ở của La Tiến Q là chất ma túy Heroine, có khối lượng 1,349 gam.

Chất bột màu trắng trong 01 túi nilon thu giữ tại nơi ở của La Tiến Q có khối lượng 0,052 gam, không tìm thấy chất ma túy.

Tại bản Cáo trạng số 193/CT-VKS, ngày 04/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo La Tiến Q về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự; bị cáo Lê Văn Hoà, Hoàng Văn H về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo La Tiến Q khai nhận: Ngày 29/7/2020, bị cáo được bán cho Lê Văn H 01 gói ma túy Heroine với giá 4.000.000 đồng;

Tại phiên tòa bị cáo Lê Văn H, Hoàng Văn H khai nhận: Các bị cáo được đến nhà bị cáo La Tiến Q mua ma túy vào ngày 29/7/2020, Lê Văn H là người trực tiếp mua với La Tiến Q 01 gói ma túy Heroine với giá 4.000.000 đồng về tàng trữ để cùng Hoàng Văn H sử dụng, sau khi mua được ma túy cả hai đang trên đường đi về thị trấn L, huyện L, tỉnh Lạng Sơn, đến đường N, phường Đ, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn thì bị lực lượng Công an bắt quả tang. Ngoài ra, bị cáo Lê Văn H khai nhận thêm, ngày 28/7/2020, bị cáo có mua với La Tiến Q 01 gói ma túy Heroine với giá 4.000.000 đồng nhưng đã sử dụng hết.

Người chứng kiến ông Nguyễn Văn L, quá trình điều tra khai: Ngày 29/7/2020, tại khu vực đường N, phường Đ, thành phố L, ông được chứng kiến cơ quan điều tra tiến hành kiểm tra thu giữ của bị cáo Lê Văn H và Hoàng Văn H 01 gói giấy màu trắng, bên trong có 01 túi nilon chứa các cục chất bột màu trắng; 01 túi nilon màu đen, bên trong có 04 bơm kim tiêm và 04 ống Novocain; khi bị bắt giữ, Lê Văn H và Hoàng Văn H khai nhận chất bột màu trắng bị thu giữ là chất ma túy Heroine vừa mua được đem về sử dụng.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo La Tiến Q phạm tội Mua bán trái phép chất ma tuý, các bị cáo Lê Văn H, Hoàng Văn H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo La Tiến Q từ 07 (bẩy) năm 06 (sáu) tháng đến 08 (tám) năm tù;

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Lê Văn H từ 30 (ba mươi) tháng đến 36 (ba mươi sáu) tháng tù;

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 17;

Đièu 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Hoàng Văn H từ 18 (mười tám) tháng đến 24 (hai mươi tư) tháng tù;

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền vì các bị cáo không có điều kiện thi hành.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự; đề nghị tịch thu để tiêu hủy 02 (hai) phong bì niêm phong bên trong đựng mẫu vật là chất ma túy sau giám định, 01 (một) phong bì niêm phong bên trong đựng mẫu vật sau giám định không tìm thấy chất ma túy và 04 (bốn) sim điện thoại số thuê bao 0387638567; 0867035776; 0337674097; 0327207418, cũ đã qua sử dụng. Tịch thu để sung ngân sách Nhà nước 4.000.000 đồng (bốn triệu đồng) thu giữ của La Tiến Q; trả lại cho bị cáo La Tiến Q 401.000 đồng (bốn trăm linh một nghìn đồng) và 01 (một) giấy chứng minh nhân dân mang tên La Tiến Q; trả cho bị cáo Lê Văn H 410.000 đồng (bốn trăm mười nghìn đồng); trả lại cho bị cáo Hoàng Văn H 50.000 đồng (năm mươi nghìn đồng). Tịch thu để hóa giá sung vào ngân sách Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu MOBELL.

Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn. Lời nói sau cùng, các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Về chứng cứ tài liệu trong vụ án được thu thập, bảo quản đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Lê Văn H, Hoàng Văn H thừa nhận có hành vi tàng trữ trái phép 3,771 gam ma túy Heroine đã mua của bị cáo La Tiến Q để sử dụng, bị cáo La Tiến Q thừa nhận được bán cho Lê Văn H 01 gói ma túy Heroine với giá 4.000.000 đồng vào ngày 29/7/2020. Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn và các tài liệu khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án nên đủ cơ sở kết luận bị cáo La Tiến Q phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy; các bị cáo Lê Văn H, Hoàng Văn H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn truy tố các bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi của các bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của con người, nền kinh tế của đất nước, hành vi đó gây mất trật tự an ninh tại địa phương. Các bị cáo đều nhận thức được tác hại của ma túy và biết hành vi mua bán, tàng trữ chất ma túy là trái phép bị pháp luật ngăn cấm nhưng các bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, hành vi của các bị cáo cần phải được xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật.

[4] Trong vụ án này, các bị cáo Lê Văn H và Hoàng Văn H phạm tội đồng phạm về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, cụ thể: Bị cáo Lê Văn H, Hoàng Văn H đều thực hiện hành vi phạm tội với vai trò người thực hành. Tuy nhiên, bị cáo Lê Văn H có vai trò cao hơn, thể hiện bị cáo là khởi xướng việc mua ma túy để sử dụng, là người bỏ tiền để mua ma túy, là người trực tiếp trao đổi, mua ma túy và cất giấu ma túy sau khi mua được; bị cáo Hoàng Văn H có vai thứ yếu, bị cáo tham gia bàn bạc, là người điều khiển xe mô tô chở Lê Văn H từ huyện L, tỉnh Lạng Sơn ra thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn mua ma túy để sử dụng và điều khiển xe chở Lê Văn H quay lại thị trấn L, huyện L, tỉnh Lạng Sơn sau khi đã mua được ma túy với mục đích tàng trữ để cùng nhau sử dụng. Do vậy, Hoàng Văn H và Lê Văn H cùng phải chịu trách nhiệm chung đối với khối lượng ma túy tàng trữ bị thu giữ. Bị cáo La Tiến Q ngoài phải chịu trách nhiệm với 1,349 gam chất ma túy Heroine bị thu giữ tại nơi ở, bị cáo còn phải chịu trách nhiệm đối với số ma túy đã bán cho Lê Văn H là 3,771 gam chất ma túy Heroine; tổng khối lượng ma túy La Tiến Q phải chịu trách nhiệm về hành vi mua bán trái phép chất ma túy là 5,12 gam chất ma túy Heroine.

[5] Ngoài việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội nêu trên cần xem xét những yếu tố liên quan đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và các yếu tố khác có liên quan của bị cáo, trên cơ sở xem xét lời đề nghị, luận tội của Viện kiểm sát.

[6] Xét về nhân thân: Bị cáo La Tiến Q và Hoàng Văn H có 01 tiền án đều đã được xóa án tích; bị cáo Lê Văn H có 01 tiền án chưa được xóa án tích, các bị cáo đều là người có nhân thân xấu.

[7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo đều thành khẩn khai báo nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo Hoàng Văn H có bố đẻ là ông Hoàng Quốc H được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến chống Mĩ cứu nước hạng Nhì nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[8] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Lê Văn H có 01 (một) tiền án, ngày 30/7/2018, bị cáo Lê Văn H bị Tòa án nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 07 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 14 tháng về tội đánh bạc, chấp hành xong thời gian thử thách vào ngày 30/9/2019, phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm. Quá trình Điều tra và tại phiên tòa Lê Văn H khai ngày 28/7/2020 có mua với La Tiến Q 01 gói ma túy giá 4.000.000 đồng, đã cùng với Hoàng Văn H sử dụng hết, bị cáo La Tiến Q khai không bán ma túy cho Lê Văn H ngày 28/7/2020, ngoài lời khai của Lê Văn H không có tài liệu khác chứng minh. Do đó, Bị cáo Lê Văn H phải chịu 01 tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo La Tiến Q, Hoàng Văn H: Không có tình tiết tăng nặng.

[9] Từ những phân tích như trên, Hội đồng xét xử thấy rằng cần xử phạt các bị cáo tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và nhân thân của các bị cáo. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền vì các bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng để thi hành.

[10] Về xử lý vật chứng: Đối với 02 (hai) phong bì niêm phong bên trong đựng mẫu vật là chất ma túy sau giám định là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành; 01(một) phong bì niêm phong bên trong đựng mẫu vật sau giám định không tìm thấy chất ma túy; 01 (một) đoạn giấy màu trắng; 01 (một) ví giả da màu nâu; 04 (bốn) xi lanh; 04 (bốn) ống NOVOCAIN 3%; 01 (một) túi nilon màu đen, 04 (bốn) sim có số thuê bao 0387638567; 0867035776; 0337674097; 0327207418, cũ đã qua sử dụng là vật không có giá trị sử dụng cần tịch thu để tiêu hủy. Đối với số tiền 4.000.000 đồng (bốn triệu đồng) thu giữ của bị cáo La Tiến Q là tiền bị cáo có được từ việc bán ma túy cho bị cáo Lê Văn H, xác định liên quan đến việc phạm tội, cần tịch thu để sung ngân sách Nhà nước. Đối với số tiền 401.000 đồng (bốn trăm linh một nghìn đồng) và 01 (một) giấy chứng minh nhân dân số 081037085 mang tên La Tiến Q thu giữ của bị cáo La Tiến Q; số tiền 410.000 đồng (bốn trăm mười nghìn đồng) thu giữ của bị cáo Lê Văn H và số tiền 50.000 đồng (năm mươi nghìn đồng) thu giữ của bị cáo Hoàng Văn H không liên quan đến việc phạm tội, trả lại cho các bị cáo. Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO;

01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu MOBELL các bị cáo sử dụng để liên lạc trao đổi mua bán, tàng trữ ma túy cần tịch thu để hóa giá, sung ngân sách Nhà nước.

[11] Đối với người đàn ông tên Q1 bán ma túy cho La Tiến Q, do bị cáo không biết nhân thân, lai lịch của người này, Cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh, xử lý trong vụ án nên Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.

[12] Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 12L1 - 20591 nhãn hiệu Honda wave màu sơn xanh trắng, các bị cáo Lê Văn H, Hoàng Văn H sử dụng đi mua ma túy, xác định đây là tài sản của chị Nông Thị H là chủ sở hữu. Ngày 13/10/2020, Cơ quan Điều tra đã trả lại xe cho chị Nông Thị Hoan trước khi đưa vụ án ra xét xử, vì vậy Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.

[13] Về đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về mức hình phạt đối với các bị cáo và hướng xử lý vật chứng đúng quy định của pháp luật, được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[14] Về án phí: Các bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[15] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm i khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo La Tiến Q;

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Lê Văn H.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Hoàng Văn H.

Căn cứ Điều 38; Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo La Tiến Q phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy; các bị cáo Lê Văn H, Hoàng Văn H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt:

2.1. Xử phạt bị cáo La Tiến Q 07 (bẩy) năm 06 (sáu) tháng tù; thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt để đi thi hành án.

2.2 Xử phạt bị cáo Lê Văn H 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù; thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 29/7/2020.

2.3. Xử phạt bị cáo Hoàng Văn H 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù; thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 29/7/2020.

3. Xử lý vật chứng:

3.1 Tịch thu để tiêu hủy:

- 02 (hai) phong bì niêm phong ,bên trong đựng mẫu vật là chất ma túy sau giám định.

- 01 (một) phong bì niêm phong, bên trong đựng mẫu vật sau giám định không tìm thấy chất ma túy.

- 01 (một) đoạn giấy màu trắng, loại giấy vệ sinh kích thước 09cm x 34cm.

- 01 (một) ví giả da màu nâu kích thước 03 cm x 09 cm x 12 cm, cũ đã qua sử dụng.

- 04 (bốn) xi lanh hiệu VINAHANKOOK, chưa qua sử dụng.

- 04 (bốn) ống NOVOCAIN 3%, chưa qua sử dụng.

- 01 (một) túi nilon màu đen.

- 04 (bốn) sim có số thuê bao 0387638567; 0867035776; 0337674097; 0327207418, cũ đã qua sử dụng.

3.2 Tịch thu để sung ngân sách Nhà nước số tiền 4.000.000 đồng (bốn triệu đồng) đựng trong 01 (một) phong bì niêm phong dán kín sau giám định.

3.3 Trả lại các đồ vật, tài liệu sau:

- Trả lại bị cáo La Tiến Q số tiền 401.000 đồng (bốn trăm linh một nghìn đồng) và 01 (một) giấy chứng minh nhân dân số 081037085 mang tên La Tiến Q.

- Trả lại bị cáo Lê Văn H số tiền 410.000 đồng (bốn trăm mười nghìn đồng) đựng trong 01 (một) phong bì niêm phong dán kín sau giám định.

- Trả lại bị cáo Hoàng Văn H số tiền 50.000 đồng (năm mươi nghìn đồng) đựng trong 01 (một) phong bì niêm phong dán kín sau giám định.

3.4 Tịch thu để hóa giá sung vào ngân sách Nhà nước:

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen, số IMEI: 353101112705198, điện thoại cũ đã qua sử dụng.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu tím than, số IMEI: 802134040812111, điện thoại cũ đã qua sử dụng.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu MOBELL màu trắng hồng, số IMEI: 510111600304693, cũ đã qua sử dụng.

(Vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 30 tháng 10 năm 2020 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lạng Sơn và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn).

4. Về án phí: Buộc bị các bị cáo La Tiến Q, Lê Văn H, Hoàng Văn H, mỗi bị cáophải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung ngân sách Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 196/2020/HS-ST ngày 08/12/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy và tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:196/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về