Bản án 19/2019/HS-ST ngày 17/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 19/2019/HS-ST NGÀY 17/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 19/2019/TLST-HS ngày 27 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2019/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Trương Văn T, sinh năm 1976, tại huyện C, tỉnh An Giang; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp A, xã H, huyện C, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hoá (học vấn): không biết chữ; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Phạt giáo Hòa hảo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Văn T1 (đã chết) và bà Nguyễn Thị L; chưa lập gia đình;

Tiền án: chưa;

Tiền sự: Ngày 17/01/2019, bị Ủy ban nhân dân xã H, huyện C áp dụng biện pháp giáo dục tại xã với thời hạn 03 tháng, kể từ ngày 17/01/2019 về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy;

Bị tạm giữ từ ngày 05/3/2019 đến ngày 14/3/2019 chuyển tạm giam cho đến nay; có mặt.

- Người làm chứng:

+ Ông Đặng Thành T; vắng mặt.

+ Ông Lưu Nhân T; vắng mặt + Bà Nguyễn Thị L; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 05/3/2049, nhận được tin báo, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Mới bắt quả tang Trương Văn T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy tại khu vực nhà mồ thuộc ấp A, xã H, huyện C, mục đích để sử dụng; thu giữ 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Hero bên trong dựng 04 bọc ma túy đá trên nấm mồ cạnh vị trí bị cáo T nằm võng và các vật chứng khác có liên quan.

Kết luận giám định số 56/KLGT-PC-09 ngày 10/3/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh A kết luận: Mẫu gửi đến giám định là ma túy, loại Methaphetamine, có khối lượng 0,4205g (không phẩy bốn hai không năm gam).

Vật chứng thu giữ: 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Hero đựng 05 bọc nylon hàn kín, bên trong có chứa chất rắn màu trắng; 01 cây kéo bằng kim loại màu đen, cán kéo bằng nhựa màu đỏ; 01 bật lửa ga bị bể phần đầu, có gắn đoạn ống kim loại màu trắng; 01 nỏ thủy tinh; 01 bình nhựa màu trắng, thân bình có quấn băng keo màu đen, miệng bình có viềng màu đỏ, nắp bình màu xanh, trên nắp có chọc thủng 02 lổ và 09 vỏ bọc nilon màu trắng.

Tại Cáo trạng số 20/CT-VKS ngày 27 tháng 5 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới đã truy tố bị cáo Trương Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, - Bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng truy tố. Bị cáo không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của Kiểm sát viên.

- Kiểm sát viên trình bày lời luận tội: Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, truy tố và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Cho nên, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Bị cáo đã bị xử lý vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nhưng lại tàng trữ trái phép chất ma túy. Cho nên, đề nghị xử phạt nghiêm bị cáo để đảm bảo mục đích răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo. Cho nên, đề nghị xem xét giảm nhẹ cho bị cáo khi lượng hình.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 khoản Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

Về xử lý vật chứng, đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu, tiêu hủy lượng ma túy bị thu giữ cùng các vật dụng được dùng vào việc sử dụng ma túy gồm: 01 cây kéo bằng kim loại, 01 bật lửa ga, 01 nỏ thủy tinh, 01 bình nhựa màu trắng, 09 vỏ bọc nilon màu trắng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Chợ Mới, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới, Kiểm sát viên được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được pháp luật tố tụng hình sự quy định. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi bị truy tố của bị cáo, bị cáo Trương Văn T khai nhận, vào ngày 04/3/2019, bị cáo mua của người phụ nữ tên H 01 bọc ma túy (1 góc 8)

được để trong vỏ bao thuốc lá hiệu Hero, với giá 800.000 đồng, trả trước 650.000 đồng, còn nợ lại 150.000 đồng tại khu vực ấp A, xã H, huyện C. Bị cáo mang bọc ma túy về khu nhà mồ, gần nhà bị cáo, phân thành 05 bọc nhỏ rồi để lại vào vỏ thuốc lá, cất tại khu nhà mồ để sử dụng dần. Khoảng 06 giờ ngày 05/3/2019, bị cáo mang nỏ thủy tinh đến khu vực nhà mồ với dự định sử dụng ma túy. Tuy nhiên, do thức khuya, mệt mỏi nên bị cáo nằm trên võng ngủ. Đến khoảng 09 giờ 30 phút cùng ngày, lực lượng Công an phát hiện thu giữ 05 bọc ma túy do bị cáo cất giữ và các vật dụng được dùng vào việc sử dụng ma túy.

Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo ở giai đoạn điều tra, truy tố; phù hợp với tài liệu, chứng cứ khác gồm: biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 05/3/2019 do Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Mới lập; lời khai của ông Đặng Thành T, ông Lưu Nhân T về việc chứng kiến Công an huyện C bắt quả tang bị cáo có hành vi tàng trữ ma túy tại khu vực nhà mồ thuộc ấp A, xã H, huyện C nên lập biên bản vi phạm và thu giữ tang vật có liên quan; lời khai của bà Nguyễn Thị L (mẹ bị cáo) về việc bị cáo bị nghiện ma túy, làm thuê để tạo thu nhập nuôi bản thân, gia đình. Hàng ngày, bị cáo thường giăng võng nghỉ trưa lại khu vực nhà mồ, cách nơi bị cáo ở khoảng 10m.

Bên cạnh đó, lời khai của bị cáo còn phù hợp với vật chứng bị thu giữ khi bắt quả tang gồm: 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Hero đựng 05 bọc nylon hàn kín, có chất rắn màu trắng bên trong, 01 cây kéo bằng kim loại, 01 bật lửa ga, 01 nỏ thủy tinh, 01 bình nhựa màu trắng, 09 vỏ bọc nilon màu trắng.

Theo Kết luận giám định số 56/KLGT-PC-09 ngày 10/3/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh A, mẫu gửi đến giám định là ma túy, loại Methaphetamine, có khối lượng 0,4205 gam.

Từ các căn cứ trên có cơ sở xác định, bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với tổng khối lượng là 0,4205 gam Methamphetamine.

Bị cáo là người thành niên, có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước nhưng vẫn cố ý thực hiện thông qua việc cất giấu ma túy và sự thừa nhận của bị cáo tại phiên tòa. Vì vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Cho nên, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới truy tố bị cáo ra trước phiên tòa hôm nay và lời buộc tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới đối với bị cáo tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội và phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân, ma tuý là chất gây nghiện. Một khi đã sử dụng thì khó có thể từ bỏ được. Chúng được xem là những nguyên nhân làm suy giảm sức khỏe, suy thoái nòi giống, phá hoại hạnh phúc gia đình. Tệ nạn ma tuý còn được xem là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội, làm lan truyền đại dịch HIV/AIDS và còn là cơ sở phát sinh nhiều tội phạm, ảnh hưởng nghiêm trọng trật tự, an toàn xã hội.

Bị cáo đang ở tuổi lao động nhưng lại lao vào con đường nghiện ngập. Để thỏa mãn cơn nghiện, bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng lớn đến công tác đấu tranh phòng, chống tệ nạn ma túy mà Nhà nước, xã hội đang ra sức thực hiện. Bên cạnh đó, trước khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo đã bị Ủy ban nhân xã H áp dụng biện pháp giáo dục tại xã trong thời hạn 03 tháng, kể từ ngày 17/01/2019 về hành vi “sử dụng trái phép chất ma túy”. Điều này thể hiện bị cáo có nhân thân không tốt. Do đó, cần có hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo; cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để đảm bảo mục đích răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trong quá trình điều tra cũng như trước phiên toà hôm nay, bị cáo đã tỏ rõ thái độ thành khẩn khai báo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, cần xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

[5] Về hình phạt bổ sung, xét bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm của người bán ma túy cho bị cáo, bị cáo khai, lượng ma túy bị thu giữ khi bị bắt quả tang được bị cáo gọi điện thoại mua của Hồ Thanh H (D), người tên H (sống như vợ chồng với H), được người thanh niên khoảng 22 tuổi giao. Tuy nhiên, bị cáo không cung cấp được họ tên, địa chỉ của người mà bị cáo khai đã bán ma túy, giao ma túy cho bị cáo. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Mới tiếp tục làm rõ xử lý sau là phù hợp quy định pháp luật.

Đối với các lần mà bị cáo khai đã mua ma túy sử dụng trước lần bị bắt quả tang, do chưa xác định được đối tượng bán ma túy cho bị cáo, không thu giữ được ma túy trong các lần mua và chưa thu thập được tài liệu, chứng cứ khác để kiểm tra, đánh giá lời khai của bị cáo. Cho nên, chưa có cơ sở xử lý các hành vi này của bị cáo trong cùng vụ án.

[7] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp, lượng ma túy bị thu giữ khi bắt quả tang là vật cấm lưu hành; 01 cây kéo bằng kim loại, 01 bật lửa ga, 01 nỏ thủy tinh, 01 bình nhựa màu trắng và 09 vỏ bọc nilon màu trắng là vật dụng được dùng vào việc sử dụng ma túy, không có giá trị sử dụng. Vì vậy, tịch thu tiêu hủy lượng ma túy, các vật dụng này theo điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[8] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Tuyên bố bị cáo Trương Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy;

Xử phạt: Trương Văn T: 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo được tính kể từ ngày bị giữ ngày 05/3/2019 (ngày năm, tháng ba, năm hai nghìn không trăm mười chín).

2. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Tịch thu, tiêu hủy:

- 01 (một) phong bì màu trắng được niêm phong (Vụ số 56/KLGT-PC09 (MT) ngày 10/3/2019) có in hình dấu tròn màu đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Mới và các chữ ký ghi tên: Nguyễn Kiều T, Nguyễn Đăng K và Nguyễn Thành D. Bên trong có mẫu vật còn lại sau khi đã giám định, có khối lượng 0,3663g (không phẩy ba sáu sáu ba gam).

- 01 (một) cây kéo bằng kim loại màu đen, cán kéo bằng nhựa màu đỏ.

- 01 (một) bật lửa ga bị bể phần đầu, có gắn đoạn ống kim loại màu trắng.

- 01 (một) nỏ thủy tinh;

- 01 (một) bình nhựa màu trắng, thân bình có quấn băng keo màu đen, miệng bình có viềng màu đỏ, nắp bình màu xanh, trên nắp có chọc thủng 02 lổ;

- 09 (chín) vỏ bọc nilon màu trắng.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 06/6/2019 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Mới với Chi cục Thi hành án dân sự huyện C).

3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Trương Văn T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đ ồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

244
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 19/2019/HS-ST ngày 17/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:19/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về