Bản án 191/2019/HNGĐ-ST ngày 29/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN TP. BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 191/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/11/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 29 tháng 11 năm 2019, tại Hội trường xét xử trụ sở Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 586/2019/TLST-HNGĐ ngày 30/7/2019, về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 185/2019/QĐXX-HNGĐ ngày 25/10/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 159/2019/QĐHPT ngày 13/11/2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Trương Minh H, sinh năm 1996; Địa chỉ: 31 Y, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; Có mặt.

Bị đơn: Chị Phạm Thị L, sinh năm 1995; Địa chỉ: 31 Y, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; Vắng mặt 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Ti đơn khởi kiện, quá trình làm việc tại Tòa án và tại phiên tòa nguyên đơn anh Trương Minh H trình bày có nội dung như sau:

Anh Trương Minh H và chị Phạm Thị L tìm hiểu yêu thương nhau tự nguyện, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố Buôn Ma Thuột vào ngày 10/5/2018. Quá trình, sống chung hạnh phúc một thời gian ngắn thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm, cuộc sống gia đình không hạnh phúc, sau khi anh Trương Minh H nộp đơn ly hôn thì chị L đã cùng con bỏ đi, mặc dù đã cố gắng duy trì cuộc sống hôn nhân nhưng đến nay tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã đến mức trầm trọng nên anh Trương Minh H có nguyện vọng xin được ly hôn với chị Phạm Thị L.

Về con chung: Anh Trương Minh H và chị Phạm Thị L có 01 con chung là cháu Trương Hoàng Gia P, sinh ngày 26/5/2018. Anh Trương Minh H có nguyện vọng xin được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cháu P đến tuổi thành niên và không yêu cầu Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con chung, trường hợp Tòa án giao con chung cho chị L nuôi dưỡng thì anh H chấp nhận vì con chung hiện đang do chị L nuôi dưỡng.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn chị Phạm Thị L đã được Tòa án triệu tập hợp L nhiều lần nhưng cố tình vắng mặt không tham gia tố tụng nên không tiến hành lấy lời khai và hòa giải được.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định.

[1] Về thẩm quyền và quan hệ pháp luật: Đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân gia đình, bị đơn chị Phạm Thị L cư trú tại phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn chị Phạm Thị L đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai, căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị L.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Anh Trương Minh H và chị Phạm Thị L lấy nhau trên cơ sở tự nguyện và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố B vào ngày 10 tháng 5 năm 2018 là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Trong quá trình duy trì quan hệ hôn nhân, vợ chồng hạnh phúc được thời gian đầu sau đó phát sinh mâu thuẫn và trở nên trầm trọng, nguyên nhân là do vợ chồng thiếu sự quan tâm, chăm sóc và bất đồng trong quan điểm, mâu thuẫn ngày càng trở nên trầm trọng; gay gắt, cuộc sống không hạnh phúc, sau khi anh H nộp đơn ly hôn thì chị L đã cùng con sống ly thân. Nay anh H xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã đến mức trầm trọng, không còn khả năng hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị L. Tại biên bản xác minh của Tòa án chính quyền địa phương cho biết anh Trương Minh H và chị Phạm Thị L có mâu thuẫn trong cuộc sống, về nguyên nhân cụ thể mâu thuẫn thế nào thì địa phương không nắm được, hiện thì anh H, chị L đã sống ly thân.

Quá trình Tòa án giải quyết vụ án đã triệu tập hợp L nhiều lần nhưng chị L vắng mặt không có lý do nên không lấy được lời khai và không tiến hành hòa giải được.

Xét mâu thuẫn trong quan hệ vợ chồng giữa anh Trương Minh H và chị Phạm Thị L đã trầm trọng, không còn khả năng hàn gắn, nếu tiếp tục duy trì quan hệ hôn nhân thì không có hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh H là phù hợp với khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về con chung: Chị L là người đang trực tiếp nuôi dưỡng con chung từ khi anh H, chị L ly thân và con chung hiện dưới 36 tháng tuổi nên để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chung và để ổn định cuộc sống của cháu cần giao con chung là cháu Trương Hoàng Gia P cho chị L tiếp tục trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành.

Anh H có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở là phù hợp với quy định tại Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

[5] Việc cấp dưỡng nuôi con chung: Anh H không yêu cầu Tòa án đặt ra giải quyết.

[6] Về tài sản chung, nợ chung: Anh H không yêu cầu Tòa án đặt ra giải quyết.

[7] Về án phí: Anh Trương Minh H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Đắk Lắk theo biên lai thu số AA/2019/0002044 ngày 23/7/2019.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 144, Điều 147, Điều 220, khoản 2 Điều 227 và Điều 266 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình.

- Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Trương Minh H xin ly hôn chị Phạm Thị L.

Về quan hệ hôn nhân: Anh Trương Minh H được ly hôn chị Phạm Thị L.

Về con chung: Giao con chung là Trương Hoàng Gia P, sinh ngày 26/5/2018 cho chị Phạm Thị L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi thành niên.

Anh Trương Minh H được quyền thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được cản trở.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Không yêu cầu Tòa án đặt ra giải quyết. Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án đặt ra giải quyết.

Về án phí: Anh Trương Minh H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Đắk Lắk theo biên lai thu số AA/2019/0002044 ngày 23/7/2019.

Nguyên đơn, có mặt tại phiên toà được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn vắng mặt tại phiên toà được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niếm yết công khai.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thị hành án dân sự, người pH thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 191/2019/HNGĐ-ST ngày 29/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:191/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về