Bản án 1905/2018/HNGĐ-ST ngày 28/12/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 1905/2018/HNGĐ-ST NGÀY 28/12/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 28 tháng 12 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 467/2017/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 10 năm 2017 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 5320/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 12 năm 2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Phạm T, sinh năm: 1977

Địa chỉ: 379/12H đường T, Phường MS, quận GV, Thành phố H.

Địa ch liên lạc: 537 đường T, Phường 16, quận Gò Vấp, Phường MS, quận GV, Thành phố H. (Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)

-  Bị đơn: Bà Trần H, sinh năm: 1972

Địa chỉ: 34 Donald St Springvale Vic 3171, Australia. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 18.9.2017 và bản tự khai đề ngày 24.10.2017, ông Phạm Hoàng T - nguyên đơn trình bày:

Năm 2015, ông và bà Trần H tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Thành phố H (theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn ngày 18.9.2015, vào sổ đăng ký kết hôn số 2285, quyển số 12 ngày 21.9.2015).

Sau khi kết hôn, ông và bà Trần H chung sống hạnh phúc được 01 tháng thì bà H về Úc để sinh sống và làm việc. Thời gian đầu, cả hai vẫn duy trì việc liên lạc với nhau qua điện thoại nhưng qua những lần trao đổi vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm nên sau đó ông bà không liên lạc nữa.

Ông T cho rằng mục đích hôn nhân không đạt được nên ông yêu cầu được ly hôn với bà Trần H Về con chung, nợ chung và tài sản chung: Ông Thọ khai không có. Không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

Tòa án đã thực hiện việc ủy thác tư pháp để thông báo về việc thụ lý, ngày mở phiên họp, phiên tòa nhằm tạo điều kiện cho các bên đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án nhưng bà Trần H không có mặt nên vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được.

Tại phiên tòa:

- Nguyên đơn ông Phạm T vẫn giữ nguyên ý kiến và yêu cầu như đã nêu trên đồng thời có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Bị đơn bà Trần H vắng mặt.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H phát biểu quan điểm:

- Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án từ giai đoạn thụ lý đến khi đưa ra xét xử và tại phiên tòa, Tòa án cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng quy định pháp luật.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

1. Về thủ tục tố tụng:

Quan hệ tranh chấp giữa ông Phạm T và bà Trần H là Ly hôn theo yêu cầu của một bên được quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn có nơi cư trú tại Thành phố H; bị đơn có nơi cư trú tại Australia nên Tòa án có thẩm quyền giải quyết là Tòa án nhân dân Thành phố H theo quy định tại khoản 1 Điều 37, khoản 1 Điều 40 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Trong quá trình tố tụng, Tòa án đã gửi Văn bản về việc Thông báo thụ lý vụ án và triệu tập tham gia tố tụng cho bị đơn bà Trần H theo quy định tại khoản 1 Điều 476 Bộ luật Tố tụng dân sự. Ngày 01.11.2018, Tòa án nhân dân Thành phố H nhận được văn bản của Bộ Tư pháp thông báo đã tống đạt văn bản tố tụng trực tiếp cho bị đơn theo quy định; tuy nhiên, đến ngày mở phiên tòa (lần thứ 2) bị đơn không có mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp với quy định tại khoản 5 Điều 477 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Ngày 16.01.2018, nguyên đơn ông Phạm T có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, Hội đồng xét xử nhận thấy trong quá trình tố tụng nguyên đơn đã cung cấp lời khai và xác định cụ thể yêu cầu khởi kiện nên việc nguyên đơn vắng mặt tại phiên tòa không gây ảnh hưởng hoặc làm thay đổi nội dung vụ án đồng thời phù hợp với khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự nên chấp nhận.

2. Về yêu cầu của đương sự:

Căn cứ Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn ngày 18.9.2015, vào sổ đăng ký kết hôn số 2285, quyển số 12 ngày 21.9.2015 do Ủy ban nhân dân Thành phố H cấp thì quan hệ hôn nhân giữa ông Phạm T và bà Trần H là hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và lời trình bày của nguyên đơn ông Phạm T thì bà Trần H sinh sống, làm việc ở Australia còn ông ở Việt Nam nên vợ chồng không có điều kiện chung sống với nhau, mục đích hôn nhân không đạt được; bên cạnh đó sau thời gian chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, không thể hàn gắn. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân Thành phố H đã làm thủ tục ủy thác tư pháp đồng thời thông báo cho bà Trần H biết yêu cầu ly hôn của ông Phạm T và ngày Tòa án sẽ đưa vụ án ra xét xử (lần thứ nhất, lần thứ hai) nhưng không nhận được ý kiến trả lời; điều này cho thấy bà Trần H không còn quan tâm đến quan hệ hôn nhân với ông T, như vậy việc hàn gắn là không còn biện pháp. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa ông Phạm T và bà Trần H đã trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nay ông T có yêu cầu ly hôn để ổn định cuộc sống là nguyện vọng chính đáng đồng thời phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình nên có cơ sở chấp nhận.

Về con chung, nợ chung và tài sản chung: Ông T khai không có. Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

3. Về án phí sơ thẩm: Nguyên đơn ông Phạm T chịu theo luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 147 và Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25 tháng 11 năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn ông Phạm T.

- Về quan hệ hôn nhân: Ông Phạm T được ly hôn với bà Trần H - Về con chung, nợ chung và tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Về án phí: Ông Phạm T chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm, được cấn trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo biên lai số AA/2017/0047836 ngày 29.9.2017 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố H. Ông T không phải nộp thêm án phí dân sự sơ thẩm.

3. Về chi phí ủy thác tư pháp: Số tiền tạm ứng chi phí ủy thác tư pháp do ông Phạm T đã nộp là 3.000.000 (ba triệu) đồng theo biên lai số AA/2017/0048603 ngày 15.01.2018 và 3.000.000 (ba triệu) đồng theo biên lai số AA/2017/0045709 ngày 10.12.2018 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố H sẽ được quyết định khi có thông báo của cơ quan có thẩm quyền thực hiện ủy thác tư pháp.

4. Về quyền kháng cáo:

Ông Phạm T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ.

Bà Trần H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 (một) tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

111
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 1905/2018/HNGĐ-ST ngày 28/12/2018 về ly hôn

Số hiệu:1905/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/12/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về