Bản án 190/2018/HNGĐ-ST ngày 24/07/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 190/2018/HNGĐ-ST NGÀY 24/07/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 24 tháng 7 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 238/2017/TLST- HNGĐ ngày 06 tháng 11 năm 2017, về việc “Tranh chấp Hôn nhân và gia đình”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2017/QĐXXST-HNGĐ, ngày 04/5/2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Đinh Xuân V, sinh ngày 05/8/1958

Địa chỉ: Thôn S, xã L, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang (Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Bà Phạm Thị T, sinh năm 1955

Địa chỉ: Thôn S, xã L, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang (Vắng mặt, không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Về quan hệ hôn nhân: Ông Đinh Xuân V. và bà Phạm Thị T. kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có được tự do tìm hiểu, có đăng ký kết hôn vào năm 1977 tại Uỷ ban nhân dân xã B, huyện N, tỉnh Tuyên Quang. Quá trình chung sống vợ chồng bình thường, hạnh phúc. Khoảng gần 10 năm trở lại đây thì phát sinh mâu thuẫn và ngày càng trầm trọng. Nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, cãi chửi nhau thường xuyên, bà T. thường hay chửi chồng, chửi con vô cớ. Ngày 10/9/2017 ông Đinh Xuân V. có đơn đề nghị Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà Phạm Thị T.

Quá trình giải quyết vụ án, ông Đinh Xuân V. xác định tình cảm vợ chồng đã hết, mâu thuẫn đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt, vợ chồng sống ly thân đã được 2 năm, tuy sống chung nhà nhưng ăn riêng, ngủ riêng, không còn quan hệ tình cảm, kinh tế gì với nhau. Do vậy, ông đề nghị Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà Phạm Thị T.

Bà Phạm Thị T. có quan điểm tình cảm vẫn còn, bà không nhất trí ly hôn do các con đã trưởng thành, hai ông bà đã già, sức khỏe yếu. Đề nghị Tòa án giải quyết cho ông bà về đoàn tụ gia đình.

* Về con chung: Vợ chồng có 06 (sáu) người con chung, anh Đinh Quang T, sinh năm 1979; chị Đinh Thị H, sinh năm 1981; chị Đinh Thị H, sinh năm 1983; chị Đinh Thị Th, sinh năm 1983; anh Đinh Văn Q, sinh năm 1989; anh Đinh Quang V, sinh năm 1993. Các con chung đã trưởng thành nên các đương sự không đề nghị Tòa án giải quyết.

* Về tài sản chung: Ông Đinh Xuân V. và bà Phạm Thị T. không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Về công nợ chung: Ông Đinh Xuân V. và bà Phạm Thị T. cùng xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết

* Kết quả xác minh tại địa phương thể hiện: Ông Đinh Xuân V. và bà Phạm Thị T. có hộ khẩu thường trú và cùng sinh sống, làm việc tại thôn S, xã L, thành phố T. Quá trình chung sống vợ chồng bình thường, hạnh phúc được thời gian đầu sau phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, có cãi chửi nhau, bà T. thường chửi mắng chồng, con vô cớ, thôn xã đã hòa giải nhiều lần nhưng không thành, nếu để tình trạng hôn nhân kéo dài thì mâu thuẫn sẽ càng gay gắt hơn.

* Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang:

- Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn khi tham gia tố tụng dân sự đều đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; riêng đối với bị đơn bà Phạm Thị T. không chấp hành nghiêm quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung vụ án: Ông Đinh Xuân V. và bà Phạm Thị T. kết hôn với nhau vào năm 1977 tại Uỷ ban nhân dân xã B, huyện N, tỉnh Tuyên Quang là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng bình thường sau phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bà T. thường hay chửi mắng chồng con vô cớ. tháng 9/2017 ông V. có đơn đề nghị Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà Phạm Thị T. Kết quả xác minh tại địa phương thể hiện mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt. Do vậy, Căn cứ vào Điều 56 Luật HN&GĐ, đề nghị Hội đồng xét xử xử cho ông Đinh Xuân V. được ly hôn với bà Phạm Thị T; Về con chung, tài sản, công nợ chung: Do các đương sự không đề nghị giải quyết nên không đề cập xử lý.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về quan hệ hôn nhân: Ông Đinh Xuân V. và bà Phạm Thị T. kết hôn với nhau trên cơ sở được tự do tìm hiểu, tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã B, huyện N vào năm 1977 là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống thời gian đầu hạnh phúc, khoảng 10 năm trở lại đây thì phát sinh mâu thuẫn, đến năm 2016 vợ chồng sống ly thân nhau. Tháng 9/2017 ông V. có đơn đề nghị Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà T, bà T. có quan điểm không nhất trí ly hôn với ông V.

Kết quả xác minh tại địa phương thể hiện: Quá trình chung sống vợ chồng ông Đinh Xuân V. và bà Phạm Thị T. bình thường, hạnh phúc được thời gian đầu sau phát sinh mâu thuẫn và ngày càng trầm trọng, có cãi chửi nhau.

Như vậy, cuộc sống hôn nhân của ông Đinh Xuân V. và bà Phạm Thị T. không có hạnh phúc, có mâu thuẫn và mâu thuẫn đã đến mức làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, vợ chồng hiện sống ly thân. Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, có cơ sở chấp nhận xử cho ông Đinh Xuân V. được ly hôn với bà Phạm Thị T.

[2]. Về con chung: Vợ chồng có 06 (sáu) người con chung, các con chung đã trưởng thành, các đương sự không đề nghị Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét

[3]. Về tài sản, công nợ chung: Về tài sản ông Đinh Xuân V. và bà Phạm Thị T. không yêu cầu Tòa án giải quyết, về công nợ ông V. và bà T. cùng xác định không có, không yêu cầu giải quyết. Do vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.

[4]. Về án phí: Ông Đinh Xuân V. phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo quy định của pháp luật.

[5]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng các Điều 28, 35, 147, 228, 271 - Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 56 - Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho ông Đinh Xuân V. được ly hôn với bà Phạm Thị T.

2. Về án phí: Ông Đinh Xuân V. phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng). Được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí 0004924 ngày 06/11/2017 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang. Ông V. đã nộp đủ án phí của vụ án.

3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

342
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 190/2018/HNGĐ-ST ngày 24/07/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:190/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về