Bản án 18/2021/HS-ST ngày 26/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 18/2021/HS-ST NGÀY 26/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 26 tháng 01 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 02/2021/TLST - HS ngày 05 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2021/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 01 năm 2021, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T, sinh năm 1999, tại Đồng Nai;

Nơi cư trú: Khu 5, thị trấn T1, huyện T2, tỉnh Đồng Nai;

Nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh;

giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Th, sinh năm 1960 và bà Trần Kim Th1, sinh năm 1963; vợ, con: Không;

Tiền sự: Ngày 01/7/2020 chấp hành xong quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Tiền án: Ngày 01/9/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Tân Phú xử phạt 01 năm tù về tội “ Trộm cắp tài sản ”, chấp hành xong án phạt tù ngày 26/4/2018.

Nhân thân:

- Ngày 07/3/2019 bị Công an huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai xử phạt vi phạm hành chính với hình thức phạt tiền 1.500.000 đồng về hành vi “xâm hại sức khỏe người khác”(hiện chưa nộp phạt ).

- Ngày 30/8/2016 bị Công an huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai xử phạt vi phạm hành chính với hình thức phạt tiền 1.250.000 đồng về hành vi “ xâm hại sức khỏe người khác” (đã nộp phạt ).

Bị cáo bị áp dụng biện pháp tạm giữ từ ngày 08/9/2020 tại nhà tạm giữ Công an huyện Tân Phú đến nay.

(Có mặt bị cáo)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 22 giờ 10 phút ngày 07/9/2020 tại khu 2, thị trấn T1, huyện T2, Công an TT Tân Phú kiểm tra và phát hiện Nguyễn Văn T cất giấu trong bóp da màu đen để trong túi quần trước bên trái 01 túi nylon kích thước 03x03cm có khóa rút một đầu bên trong có chứa 02 cục chất rắn màu trắng nghi là ma túy và 01 túi lylon được hàn kín kích thước 01 x 03cm bên trong có chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy và đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Vật chứng thu giữ được niêm phòng theo quy định gồm:

- 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng (kí hiệu M1).

- 01 gói nylon chứa 02 cục chất bột màu trắng (kí hiệu M2).

Nguyễn Văn T khai nhận vật chứng thu trên là ma túy đá, mua và cất giữ để sử dụng, số ma túy đá mua ở Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 03/9/2020 của một người phụ nữ không rõ nhân thân lai lịch với giá 900.000đ, sau đó mang về sử dụng, số còn lại bị bắt giữ; còn 02 cục ma túy loại Heroin là do T đổi ma túy đá với 01 người tên Tuấn( không rõ nhân thân lai lịch ) ở khu vực lô giá tỵ thuộc thị trấn Tân Phú, huyện Tân Phú.

Kết quả giám định: Bản kết luận giám định số 2178/KLGĐ-PC09 ngày 14/9/2020 của Phòng kỹ thuật Công an tỉnh Đồng Nai kết luận về đối tượng giám định như sau:

- Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong (ký hiệu M1) gửi giám định là ma túy, có khối lượng: 0,0774gam, loại: Methamphetamine.

- Mẫu chất bột màu trắng được niêm phong (ký hiệu M2) gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,4003gam, loại: Heroine (Heroin).

Tại bản cáo trạng số 11/CT-VKS-HS ngày 04/01/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay: Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự và đề xuất mức án đối với bị cáo Nguyễn Văn T từ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng đến 03 (ba) năm tù.

Biện pháp tư pháp:

- Tịch thu tiêu hủy lượng ma túy còn lại sau giám định vụ số 2178/KLGĐ- PC09 ngày 14/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai.

Về án phí đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo pháp luật.

- Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi của mình như cáo trạng truy tố là đúng, bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, tạo điều kiện để bị cáo sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Tại phiên tòa bị cáo không đưa ra đồ vật, tài liệu, chứng cứ nào khác. Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Vụ án không thuộc trường hợp tạm đình chỉ hoặc trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Phú, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn T thừa nhận: Bị cáo là người nghiện ma túy, để có ma túy sử dụng bị cáo đã về Thành phố Hồ Chí Minh mua ma túy của một người không rõ nhân thân lai lịch đem về khu 2, thị trấn Tân Phú, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai để sử dụng thì bị bắt quả tang cùng tang vật vào ngày 07/9/2020. Kết quả giám định là ma túy, có khối lượng 0,0774gam, loại: Methamphetamine và 0,4003gam, loại: Heroine.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với vật chứng thu hồi được và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở kết luận, hành vi trên của bị cáo T đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó, Cáo trạng số 11/CT-VKS-HS ngày 04/01/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú, truy tố bị cáo về tội danh và khung hình phạt như trên là đúng người, đúng tội, không oan sai cho bị cáo.

[3]. Bị cáo bị cáo nhận thức được rằng ma túy là hiểm họa của mọi người, mọi nhà là một loại chất cấm lưu hành và do Nhà nước quản lý; Bị cáo là người nghiện ma túy nhưng bị cáo không quyết tâm từ bỏ ma túy, sống có ích cho gia đình và xã hội mà ngược lại bị cáo còn đi vào con đường phạm tội bằng hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương.

Bị cáo có 01 Tiền sự: (Ngày 01/7/2020 chấp hành xong quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc) và nhân thân xấu (- Ngày 07/3/2019 bị Công an huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai xử phạt vi phạm hành chính với hình thức phạt tiền 1.500.000 đồng về hành vi “ xâm hại sức khỏe người khác”(hiện chưa nộp phạt). - Ngày 30/8/2016 bị Công an huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai xử phạt vi phạm hành chính với hình thức phạt tiền 1.250.000 đồng về hành vi “ xâm hại sức khỏe người khác” (đã nộp phạt).

Do đó, cần có mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã thực hiện, tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[4]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo có 01 tiền án chưa được xóa án tích (Ngày 01/9/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Tân Phú xử phạt 01 năm tù về tội “ Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong án phạt tù ngày 26/4/2018) nên phải chịu thêm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Vì vậy bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5]. Về các biện pháp tư pháp:

- Tịch thu tiêu hủy lượng ma túy còn lại sau giám định vụ số 2178/KLGĐ-PC09 ngày 14/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai.

[6]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Xét quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát về việc đánh giá tính chất mức độ, hành vi phạm tội và hình phạt của bị cáo là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 08/9/2020.

Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy lượng ma túy còn lại sau giám định được hoàn lại trong niêm phong số 2178/KLGĐ-PC09 ngày 14/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai.

(Số vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyên Tân Phu va Chi cuc Thi hanh an dân sư huyên Tân Phú ngày 05/01/2021).

- Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

235
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2021/HS-ST ngày 26/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:18/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về