Bản án 18/2021/HNGĐ-ST ngày 18/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN - TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 18/2021/HNGĐ-ST NGÀY 18/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 18 tháng 01 năm 2021. Tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 314/2020/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 10 năm 2020, về tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con ” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 46/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 25/2020/QĐST-HNGĐ ngày 28 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Trần Thị T - Sinh năm 1984. (có mặt) Nơi cư trú: Thôn Phú V, xã Điện Q, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

2. Bị đơn: Ông Trần Văn M – Sinh năm 1986. (vắng mặt) Nơi cư trú: Thôn Phú V, xã Điện Q, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 06 tháng 10 năm 2020 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn Bà Trần Thị T trình bày:

1.Về quan hệ hôn nhân:

Bà Trần Thị T và Ông Trần Văn M kết hôn với nhau vào ngày 21 tháng 11 năm 2006, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Điện Q, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

Việc kết hôn là hoàn toàn tự nguyện.

Quá trình chung sống, vợ chồng đã sinh được hai con chung thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do ông Trần Văn M nhậu nhẹt say xỉn, về nhà đánh đập bà T nhiều lần và dọa giết bà T. Lần gần nhất là vào tối 17 tháng 9 năm 2020 sau khi ông M đi nhậu về thì gây gỗ với bà T và đập phá hết đồ đạt trong nhà.

Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không thể tiếp tục kéo dài nên Bà Trần Thị T làm đơn khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông Trần Văn M.

2. Về con chung: Có 02 con chung.

Trần Minh Q - Sinh ngày 18 tháng 6 năm 2006 và Trần Minh N– Sinh ngày 03 tháng 12 năm 2007. Nếu ly hôn, bà Trần Thị T yêu cầu được nuôi con Trần Minh Q và Trần Minh N. Bà Trần Thị T không yêu cầu ông Trần Văn M cấp dưỡng nuôi con chung.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

Ngoài yêu cầu trên bà Trần Thị T không có yêu cầu gì khác. Bị đơn ông Trần Văn M không có mặt tại phiên toà.

Sau khi Toà án thụ lý vụ án, đã tiến hành các thủ tục theo quy định của BLTTDS, triệu tập đương sự nhưng ông Trần Văn M không chấp hành giấy triệu tập. Toà án đã tiến hành xác M tại địa phương thì xác định ông M vẫn đang sinh sống, làm việc và cư trú tại thôn Phú V, xã Điện Q, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam nhưng cố tình trốn tránh, không chấp hành giấy triệu tập cũng như các giấy tờ khác của Toà án gởi cho ông M.

Toà án tiến hành làm thủ tục thực hiện việc niêm yết công khai thông báo thụ lý vụ án, thông báo phiên hoà giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên toà nhưng ông Trần Văn M vẫn không chấp hành giấy triệu tập của Toà án.

Đại diện VKSND thị xã Điện Bàn phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Toà án cấp sơ thẩm đã thụ lý và Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng quy định của BLTTDS, việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn đảm bảo kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án. Đối với bị đơn không chấp hành theo giấy triệu tập cũng như các quy định khác của pháp luật. VKS đề nghị HĐXX áp dụng Điều 28, 35, 39 của BLTTDS; các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình. Chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Trần Thị T đối với ông Trần Văn M. Về con chung giao con là Trần Minh Q và Trần Minh N cho bà Trần Thị T trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi). Bà Trần Thị T không yêu cầu ông Trần Văn M cấp dưỡng nuôi con chung. Ông Trần Văn M được quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung sau khi ly hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Bà Trần Thị T khởi kiện yêu cầu được ly hôn ông Trần Văn M và yêu cầu nuôi con khi ly hôn. Đây là tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39 BLTTDS. Thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

[2] Về tố tụng: Ông Trần Văn M không chấp hành giấy triệu tập của Tòa án, Toà án đã tiến hành lập thủ tục niêm yết công khai theo quy định tại điều 179 của BLTTDS nhưng ông Trần Văn M vẫn không đến Toà án. Căn cứ vào Điều 227 của BLTTDS Toà án tiến hành xét xử vắng mặt đối với ông Trần Văn M.

[3] Về quan hệ hôn nhân:

Quan hệ hôn Ngiữa bà Trần Thị T và ông Trần Văn M là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng đã có 02 con chung thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn theo bà T khai là do ông Trần Văn M nhậu nhẹt say xỉn, về nhà đánh đập bà T nhiều lần và dọa giết bà T. Lần gần nhất là vào tối 17 tháng 9 năm 2020 sau khi ông M đi nhậu về thì gây gỗ với bà T và đập phá hết đồ đạt trong nhà. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không thể tiếp tục kéo dài nên bà Trần Thị T làm đơn khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông Trần Văn M.

HĐXX xét thấy: Tình trạng hôn nhân giữa bà T và ông M đã mâu thuẫn trầm trọng và kéo dài. Xác minh tại chính quyền địa phương cho thấy ông Trần Văn M có mặt tại địa phương nhưng không chấp hành giấy triệu tập của Tòa án. Không đến Tòa án trình bày ý kiến, nguyện vọng của mình để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp theo quy định của pháp luật. Như vậy, đời sống chung giữa bà Trần Thị T và ông Trần Văn M không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ Điều 51, 53, 56, 57 Luật hôn nhân và gia đình. Xử cho bà Trần Thị T được ly hôn ông Trần Văn M là phù hợp.

[4] Về con chung: Bà T và ông M có 02 con chung:

- Trần Minh Q - Sinh ngày 18 tháng 6 năm 2006.

- Trần Minh N– Sinh ngày 03 tháng 12 năm 2007.

Hiện nay hai con Trần Minh Q và Trần Minh N đang sống với bà T. Bà T yêu cầu được nuôi hai con Trần Minh Q và Trần Minh Nhân. Bà Trần Thị T không yêu cầu ông Trần Văn M cấp dưỡng nuôi con chung.

HĐXX xét thấy: Việc giao con cho ai nuôi phải đảm bảo quyền lợi mọi mặt của con trẻ. Xét thấy cháu Trần Minh Q và Trần Minh N còn nhỏ nên việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục rất cần thiết trong giai đoạn này. Các con của bà T cũng có nguyện vọng được sống với bà T sau khi ly hôn. Do đó, căn cứ Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình nên giao cháu Trần Minh Q và Trần Minh N cho bà Trần Thị T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Bà Trần Thị T không yêu cầu ông Trần Văn M cấp dưỡng nuôi con chung.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

[6] Về án phí:Căn cứ điều 147 của BLTTDS; Điều 26, 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bà Trần Thị T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, 35, 39, 147, 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, 53, 56, 57, 58, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình; Điều 17 Luật phí và lệ phí, Điều 26, 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Cho ly hôn giữa bà Trần Thị T và ông Trần Văn M.

2. Về nuôi con chung: Giao con Trần Minh Q - Sinh ngày 18 tháng 6 năm 2006 và Trần Minh N– Sinh ngày 03 tháng 12 năm 2007, cho bà Trần Thị T, trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi). Bà Trần Thị T không yêu cầu ông Trần Văn M cấp dưỡng nuôi con chung.

Ông Trần Văn M được quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung sau khi ly hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

4. Về án phí: Bà Trần Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí HNST đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0002737 ngày 06/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Điện Bàn. Bà Trần Thị T đã nộp đủ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Các đương sự, có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2021/HNGĐ-ST ngày 18/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:18/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Điện Bàn - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về