Bản án 18/2019/HS-ST ngày 12/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIM BẢNG, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 18/2019/HS-ST NGÀY 12/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 15/2019/HSST ngày 28 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo Nguyễn Duy L, sinh năm 1988; nơi ĐKHKTT và cư trú: Thôn 1, xã Th, huyện K, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 6/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; Giới tính: Nam. Con ông Nguyễn Duy Q (Đã chết) và bà Đặng Thị N; có vợ Nguyễn Thị T và 02 con, con lớn sinh năm 2016, con nhỏ sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không. Đặc điểm nhân thân: Ngày 27/5/2008, UBND huyện K, tỉnh Hà Nam ra quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc, thời hạn 24 tháng. Ngày 27/6/2013, UBND quận Đ, thành phố Hà Nội ra quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc, thời hạn 24 tháng. Tạm giữ ngày 26/02/2019, tạm giam ngày 01/3/2019. Có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo: Ông Phạm Đại Vương - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Hà Nam. Có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Duy Th, sinh năm 1982; trú tại: Thôn 4, xã Th, huyện K, tỉnh Hà Nam. Vắng mặt.

* Người làm chứng:

- Anh Ngô Văn M, sinh năm 1986; trú tại: Thôn Thụy Sơn 2, xã T, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Vắng mặt.

- Anh Trương Minh T, sinh năm 1993; trú tại: Thôn Thụy Sơn 1, xã T, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 14 giờ ngày 26/02/2019, Công an huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam tuần tra tại khu vực chợ xã T thuộc thôn Thụy Sơn 2, xã T, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam, phát hiện thấy Nguyễn Duy L, sinh năm 1988 ở thôn 1, xã Th, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam có biểu hiện nghi vấn. Tiến hành kiểm tra, Công an huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam phát hiện, thu giữ trong túi quần dài bên phải phía trước đang mặc của Nguyễn Duy L 01 gói nhỏ bên ngoài bọc bằng tờ tiền polime mệnh giá 10.000đồng, bên trong chứa các cục chất bột màu trắng đục. Nguyễn Duy L khai nhận chất bột màu trắng đục bị thu giữ là ma túy, cất giấu mục đích để sử dụng. Công an huyện Kim Bảng lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng ký hiệu QT01. Ngoài ra thu giữ của Nguyễn Duy L 01 xe mô tô BKS 90B2-808.68. Khám xét khẩn cấp chỗ ở của Linh, thu giữ 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Duy L.

Tại bản kết luận giám định số 37/PC09-MT ngày 01/3/2019 của Công an tỉnh Hà Nam kết luận: Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì niêm phong ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,168gam loại Heroin.

Về nguồn gốc ma túy: Nguyễn Duy L khai nhận góp 400.000đồng cho người thanh niên tên là T ở thị trấn Quế, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam mua và đưa cho. Cơ quan điều tra đã xác minh nhưng người thanh niên tên T nhưng không có mặt ở địa phương nên không làm rõ được.

Đối với vật chứng của vụ án: Cơ quan điều tra đã làm rõ số tiền 10.000đồng dùng để bọc gói ma túy là tang vật của vụ án. Đối với chiếc xe mô tô BKS 90B2- 808.68 là tài sản của anh Nguyễn Duy Th, sinh năm 1982 ở thôn 4, xã Th, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam, anh Th không biết L mượn xe để đi mua ma túy nên cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Th chiếc xe mô tô trên.

Tại bản cáo trạng số 18/CT-VKSKB ngày 25/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam đã truy tố Nguyễn Duy L về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Duy L phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý ". Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt Nguyễn Duy L từ 30 tháng đến 36 tháng tù. Thời hạn tù, tính từ ngày tạm giữ 26/02/2019. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự. Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01

 tờ tiền polime mệnh giá 10.000đồng, tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại có trong01 phong bì niêm phong nguyên vẹn có số 37/PC09-MT của Công an tỉnh Hà Nam, phần kính gửi đề Mẫu vật hoàn trả QT01. Trả lại cho Nguyễn Duy L 01 chứng minh nhân dân số 168536994 mang tên Nguyễn Duy L. Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu 200.000đồng. Người bào chữa cho bị cáo đề nghị Tòa án xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất. Bị cáo nhất trí với cáo trạng, luận tội của Viện kiểm sát, ý kiến của người bào chữa, bị cáo không bổ sung, tranh luận  gì. Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Kim Bảng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bảng, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp.

[2] Tại phiên tòa và quá trình điều tra Nguyễn Duy L thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội phù hợp với lời khai nhận tội tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ, niêm phong vật chứng, bản kết luận giám định về chất ma túy, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Tòa án có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 14 giờ ngày 26/02/2019, tại thôn Thụy Sơn 2, xã T, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Công an huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam bắt quả tang Nguyễn Duy L tàng trữ trái phép 0,168g Heroin mục đích để sử dụng. Hành vi đó của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy". Tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự như cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam đã truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm hại trực tiếp đến khách thể được pháp luật hình sự Việt Nam bảo vệ, đó là chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi cất giữ 0,168gam Heroine trong túi quần bên phải phía trước đang mặc của mình, mục đích để sử dụng bị pháp luật nghiêm cấm nhưng để thỏa mãn nhu cầu nghiện của bản thân mà vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội vì chất ma túy không những trực tiếp hủy hoại sức khỏe con người, làm suy thoái giống nòi, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội và an ninh quốc gia mà còn là nguyên nhân chủ yếu làm gia tăng tội phạm trong xã hội.

[3] Khi quyết định hình phạt Tòa án cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự thấy: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Về tình tiết tăng nặng bị cáo không phải chịu nhưng bị cáo có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc nhưng không lấy đó làm bài học để sửa sai lầm của bản thân mà lại phạm tội. Do đó hành vi phạm tội của bị cáo phải được xử phạt nghiêm minh, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian như đề nghị của Viện kiểm sát để giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội đồng thời giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm chung.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đồng đến 500.000.000đồng…hoặc bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền hoặc bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập, tài sản và là người mắc nghiện ma túy nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về nguồn gốc ma túy thu giữ trong vụ án: Nguyễn Duy L khai nhận góp 400.000đồng cho người thanh niên tên T ở thị trấn Q, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam mua và đưa cho. Do bị cáo chỉ biết tên người thanh niên là T, địa chỉ cụ thể của Tuấn thì bị cáo không biết nên cơ quan điều tra không làm rõ được để xử lý theo quy định của pháp luật.

[6] Về xử lý vật chứng: Vật chứng đã được bàn giao đến Chi cục thi hành án dân sự huyện Kim Bảng ngày 25/3/2019 gồm: 01 phong bì niêm phong nguyên vẹn đều có số 37/PC09-MT của Công an tỉnh Hà Nam, phần kính gửi đề mẫu vật hoàn trả QT01. Bên trong phong bì có 01 tờ tiền mệnh giá 10.000đồng dùng gói ma túy là vật chứng có giá trị nên tịch thu sung quỹ Nhà nước và số ma túy là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 giấy chứng minh nhân dân số 168536994 mang tên Nguyễn Duy L là giấy tờ tùy thân của bị cáo nên trả lại cho bị cáo theo quy định tại Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a điểm b khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều  135;  Điều  136  Bộ luật Tố tụng hình sự.  Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc  hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

 [8] Quyền kháng cáo: Bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các Điều 331; Điều 332; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Duy L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm c khoản 1 điều 249; Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Duy L 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù, tính từ ngày tạm giữ 26/02/2019.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a điểm b khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự. Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 10.000đồng và tịch thu tiêu hủy số ma túy có trong 01 phong bì niêm phong nguyên vẹn có số 37/PC09-MT của Công an tỉnh Hà Nam, phần kính gửi đề mẫu vật hoàn trả QT01. Trả lại cho Nguyễn Duy L 01 chứng minh nhân dân số 168536994 mang tên Nguyễn Duy L.

3. Án phí: Căn cứ Điều 135; Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Duy L phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án theo quy định các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2019/HS-ST ngày 12/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:18/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Bảng - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về