Bản án 18/2018/HSST ngày 26/06/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỆ THUỶ, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 18/2018/HSST NGÀY 26/06/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Hôm nay, ngày 26 tháng 6 năm 2018 tại trụ sở; Toà án nhân dân huyện Lệ Thuỷ, tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 14/2018/TLST-HS ngày 17/5/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2018/QĐXXST-HS ngày 12/6/2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Hữu T, sinh ngày 08 tháng 8 năm 1996 tại huyện L, tỉnh Quảng Bình; Nơi cư trú: Thôn M, xã S, huyện L, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hoá: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không tôn giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đăng C, sinh năm 1959 và bà Phạm Thị Tố N, sinh năm 1963.

Tiền sự, tiền án: Không. Bị cáo tại ngoại, có mặt.

Bị hại:

Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1964, địa chỉ: Thôn M, xã S, huyện L, tỉnh Quảng Bình. Có mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

-  Ông Nguyễn Hồng Q, sinh năm 1957, địa chỉ: Thôn H, xã S, huyện L, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.

-  Anh Võ Việt S, sinh năm 1985, địa chỉ: Thôn M, xã S, huyện L, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.

- Ông Nguyễn Đăng C, tên gọi khác: Nguyễn Đăng T, sinh năm 1959, địa chỉ: Thôn M, xã S, huyện L, tỉnh Quảng Bình. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 09 giờ ngày 20/01/2018, Nguyễn Hữu T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 61R3- 4068 của gia đình T đi trên đường H nhánh Đông, khi đi ngang qua nhà bà Nguyễn Thị T ở thôn M, xã S, huyện L, tỉnh Quảng Bình, thấy nhà đóng cửa, không có người trông coi, Nguyễn Hữu T nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Nguyễn Hữu T dừng xe ngoài đường rồi vào nhà bà T, thấy cửa hông khóa chốt, Nguyễn Hữu T dùng cây dao của bà T cạy chốt cửa nhưng không được, Nguyễn Hữu T tiếp tục lấy cái cuốc để gần đó cạy chốt cửa và đột nhập vào nhà lấy trộm 100.000 đồng cùng chìa khóa xe mô tô để ở đầu giường, 01 điện thoại di động hiệu Nokia C2-01 đang sạc pin để ở phía cuối giường. Tiếp đó, Nguyễn Hữu T đến tủ thờ lấy máy tính xách tay hiệu Dell màu đen và ba lô màu đen đựng máy tính xách tay. Nguyễn Hữu T tiếp tục đến phòng lồi lấy Tivi TCL loại 32 inch màu đen và dùng áo mưa trùm lại. Nguyễn Hữu T đưa tất cả tài sản trộm được ra ngoài, chở Ti vi đến ngôi nhà hoang ở gần ga M, xã S cất giấu và đưa máy tính xách tay bán đến cho anh Võ Việt S ở thôn M, xã S, huyện L được 500.000 đồng; ba lô đựng máy tính xách tay, chìa khóa xe mô tô, áo mưa Nguyễn Hữu T vứt trên đường về nhà. Đến trưa ngày 21/01/2018, Nguyễn Hữu T điều khiển xe mô tô BKS 61R3-4068 đến ngôi nhà hoang lấy Ti vi đến bán cho ông Nguyễn Hồng Q ở thôn H, xã S, huyện L được 500.000 đồng. Số tiền bán được Nguyễn Hữu T tiêu xài cá nhân hết.

Về vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lệ Thuỷ tạm giữ: 01 cái cuốc, 01 điện thoại di động hiệu Nokia C2-01, 01 Ti vi màn hình phẳng hiệu TCL 32 inch, 01 máy tính xách tay hiệu Dell (Tất cả có đặc điểm như biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu ngày 27/02/2018 và ngày 28/02/2018). Ngày 08/3/2018, Cơ quan điều tra Công an huyện Lệ Thuỷ đã trả lại toàn bộ tài sản tạm giữ cho chủ sở hữu.

Xe mô tô BKS 61R3- 4068 Nguyễn Hữu T sử dụng làm phương tiện phạm tội là xe của gia đình T, việc T lấy xe mô tô làm phương tiện phạm tội gia đình không biết nên cơ quan điều tra không tạm giữ. Ba lô đựng máy tính xách tay, áo mưa, chìa khóa xe mô tô T trộm cắp và vứt lại bên đường, cơ quan điều tra đã truy tìm nhưng không có kết quả.

Ngày 05/3/2018, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lệ Thủy tiến hành định giá và kết luận: Điện thoại di động hiệu Nokia C2-01 có giá trị 200.000 đồng, ti vi màn hình phẳng hiệu TCL 32 inch có giá trị 2.000.000 đồng, máy tính xách tay hiệu Dell có giá trị 3.500.000 đồng.

Về dân sự: Bị cáo đã trả lại cho bà Nguyễn Thị T số tiền 100.000 đồng, trả cho ông Nguyễn Hồng Q số tiền 500.000 đồng và anh Võ Việt S số tiền 500.000 đồng. Các bên cam kết chấm dứt phần dân sự.

Bản Cáo trạng số: 14/CT-VKSNDLT ngày 17/5/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lệ Thuỷ truy tố bị cáo Nguyễn Hữu T tội trộm cắp tài sản theo Điều 173 Bộ luật hình sự. Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm b, h, i, s khoản 1 và khoản 2  Điều 51; khoản 1, 2 Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Hữu T từ 9 tháng đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 đến 24 tháng.

Ý kiến của bị hại: Đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đề nghị xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ để rèn luyện thành người công dân tốt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Hữu T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và tang vật vụ án đã thu giữ cũng như các tài liệu, chứng cứ khác thu thập trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ Luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[3] Bị cáo Nguyễn Hữu T đã có hành vi lén lút trộm cắp tài sản có tổng trị giá 5.700.000 đồng và 100.000 đồng tiền mặt của bà Nguyễn Thị T. Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ kết luận bị cáo phạm tội trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lệ Thuỷ và lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả; phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tại phiên toà bị hại đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, h, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự vì bị cáo có bố là thương binh, Hội đồng xét xử xét thấy trong hồ sơ vụ án có bản sao Giấy chứng nhận thương binh họ tên Nguyễn Đăng T, sinh năm 1960; lý lịch bị can và giấy khai sinh (bản sao) của bị cáo thể hiện bố là Nguyễn Đăng C, sinh năm 1959, vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên toà.

[5]  Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy hành vi của bị cáo gây lo lắng, bất bình đối với nhân dân tại địa phương và xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Tuy nhiên, bị cáo có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng, bị hại cũng đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Vì vậy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khõi đời sống xã hội mà giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục bị cáo nhằm thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật.

[6]  Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5, Điều 173 Bộ luật Hình sự: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.

Xét thấy bị cáo nghề nghiệp làm ruộng, thu nhập thấp và không ổn định, không có tài sản riêng để đảm bảo thi hành án nên Hội đồng xét xử quyết định miễn áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[7]  Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo và đương sự đã thoả thuận, cam kết chấm dứt phần dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8]  Về vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lệ Thuỷ tạm giữ và trả lại tài sản bị cáo chiếm đoạt cho chủ sở hữu phù hợp với Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[9] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Hữu T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Bị cáo, đương sự có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm để xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào Điều 173 Bộ luật Hình sự, tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu T phạm tội trộm cắp tài sản.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm b, h, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2 Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Hữu T 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng. Giao bị cáo Nguyễn Hữu T cho Uỷ ban nhân dân xã S, huyện L, tỉnh Quảng Bình giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Miễn hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo Nguyễn Hữu T.

2. Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức án phí, lệ phí Tòa án, xử buộc bị cáo Nguyễn Hữu T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

3. Bị cáo, đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (26/6/2018); đương sự vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại trụ sở Uỷ ban nhân dân xã nơi cư trú để xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2018/HSST ngày 26/06/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:18/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lệ Thủy - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về