Bản án 18/2018/HS-ST ngày 06/02/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 18/2018/HS-ST NGÀY 06/02/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 02 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 01/2018/TLST-HS ngày 04 tháng 01 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2018/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 01 năm 2018 đối với bị cáo: Đinh Văn L, sinh năm 1994 tại tỉnh P; hộ khẩu thường trú: Ấp 4, xã T, thị xã Đ, tỉnh P; chỗ ở: Không nơi cư trú nhất định. Nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hoá: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đinh Quang T và bà Ngô Thị L; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 29/3/2011, bị Toà án nhân dân thị xã Đ, tỉnh P xử phạt 36 tháng tù về tội: “Cướp tài sản” theo Bản án số 21/2011/HSST, ngày 16/7/2013, bị Toà án nhân dân thành phố B, tỉnh Đ xử phạt 01 năm tù về tội: “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 412/2013/HSST; bị bắt tạm giam ngày 06/10/2017, có mặt.

- Người bị hại: Nguyễn Thành A, sinh năm 1987; địa chỉ: Khu phố 3B, phường T, thị xã B, tỉnh B, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đinh Văn L làm thuê phụ bán quán cơm tại khu vực đường S, Quận 4, Thành phố H. Chiều tối ngày 05/10/2017, L nghỉ làm và đi bộ về quê ở xã H, thị xã Đi, tỉnh B để xin tiền gia đình chuộc điện thoại đã cầm cố. Khi đi ngang qua chợ S, L vào mua 01 con dao hiệu Kiwi mũi nhọn dài 14cm (cán bằng nhựa màu đỏ dài 07 cm, lưỡi bằng kim loại dài 07 cm) cất trong túi quần nhằm mục đích phòng thân.

Khoảng 16 giờ 20 phút ngày 06/10/2017, L đi bộ đến đoạn đường quốc lộ 13, thuộc khu vực khu phố 6, phường T, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương, thì thấy xe mô tô Honda Winer biển số 61G1 -547.11 của anh Nguyễn Thành A dựng trong vườn tràm cách lề đường 05 m, đầu xe hướng vào trong vườn tràm, không có ai trông giữ. Do anh A để xe ngoài đường để đi vệ sinh ở phía trong vườn tràm. Lúc này, L nảy sinh ý định lấy trộm xe mô tô làm phương tiện đi về nhà. Nên L lén lút đi lại chỗ dựng xe mô tô biển số 61G1 -547.11 thì phát hiện xe bị khóa cổ, nắp ổ khóa bị khóa đậy lại. L liền lấy con dao trong túi quần ra cầm trên tay đút mũi dao vào ổ khóa, cạy nắp đậy ổ khóa để bẽ khóa. L cạy nhiều lần làm cho bề mặt nắp đậy ổ khóa bị nhiều vết trầy xước nhưng không mở được. Trong lúc đang cạy nắp đậy ổ khóa xe, L nhìn vào phía trong vườn tràm thì thấy anh A đang ngồi cách khoảng 20 mét nhưng không biết anh A ngồi làm gì và không biết anh A là chủ xe.

Anh A đang đi vệ sinh quay lại nhìn thì thấy L đang khom người cạy ổ khóa xe của mình nên truy hô trộm. L nghe thấy liền bỏ đi. anh A chạy lại mở khóa xe mô tô biển số 61G1 -547.11 điều khiển chạy đuổi theo L một đoạn khoảng 200 m thì theo kịp. anh A truy hô cùng quần chúng nhân dân bắt giữ L giao cho Công A phường T. Công an phường T lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang, tạm giữ vật chứng gồm: 01 con dao dài 14 cm (cán nhựa màu đỏ dài 07 cm có dán chữ Kiwi, lưỡi dao bằng kim loại dài 07 cm, đầu lưỡi dao nhọn bị cong mũi) của Đinh Văn L và xe mô tô hiệu Honda Winer biển số 61G1 – 547.11, màu đỏ đen, số máy KC26E1055500, số khung 2601GY21184. Sau đó, vụ việc được chuyển giao cho Công an thị xã Bến Cát xử lý theo thẩm quyền.

Tại cơ quan điều tra, Đinh Văn L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai phù hợp với các tài liệu chứng cứ thu thập được trong hồ sơ vụ án.

Theo Kết luận về việc định giá tài sản ngày 09/10/2017 Hội đồng định giá thị xã Bến Cát: xe mô tô Honda Winer biển số 61G1 – 547.11 màu đỏ đen đã qua sử dụng trị giá 41.400.000 đồng.

Ngày 13/10/2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Bến Cát xử lý vật chứng trả xe mô tô hiệu Honda Winer, biển số 61G1 – 547.11 cho bị hại Nguyễn Thành A. Anh A không yêu cầu giải quyết gì thêm về trách nhiệm dân sự.

Tại bản Cáo trạng số 10/CT-VKS ngày 03 tháng 01 năm 2018 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát truy tố bị cáo Đinh Văn L về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi lén lút trộm cắp tài sản của người khác như nội dung Cáo trạng truy tố và không có ý kiến gì khác.

Tại phần tranh luận:

- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Đinh Văn L về tội: “Trộm cắp tài sản”. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2009; Điều 15; Điều 57 của Bộ luật Hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo Đinh Văn L mức án từ 18 (mười tám) tháng đến 20 (hai mươi) tháng tù.
- Bị cáo không tự bào chữa, không phát biểu ý kiến tranh luận với Kiểm Sát viên.
Lời nói sau cùng của bị cáo Đinh Văn L: Bị cáo không nói lời nói sau cùng.

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công A thị xã Bến Cát, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng quy định pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo Đinh Văn L tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người bị hại và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, do đó có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 16 giờ 30 phút, ngày 06/10/2017, tại vườn tràm cạnh đường Quốc lộ 13 thuộc khu phố 6, phường T, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương, bị cáo Đinh Văn L có hành vi lén lút dùng dao nhọn cạy ổ khóa xe mô tô hiệu Honda Winer biển số 61G1 – 547.11 của anh Nguyễn Thành A để mở nắp đậy ổ khóa phá khóa lấy trộm xe nhưng chưa mở được thì bị anh A phát hiện truy hô bắt giữ cùng tang vật.

Xét bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Về nhận thức, bị cáo hoàn toàn biết hành vi lén lút lấy trộm tài sản của người khác là vi phạm pháp luật. Nhưng vì động cơ tư lợi, bản chất tham lam, lười lao động, muốn có tài sản để sử dụng nên bị cáo cố ý thực hiện hanh vi ph ạm tội, bất chấp hậu quả, thể hiện ý thức liều lĩnh và xem thường pháp luật.

Tài sản bị cáo có ý định chiếm đoạt là 01 xe mô tô Honda Winer biển 61G1 – 547.11 màu đỏ đen của người bị hại Nguyễn Thành A, trị giá 41.400.000 đồng. Bị cáo chưa chiếm đoạt được tài sản đã bị phát hiện là ngoài ý muốn của bị cáo. Hành vi này của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự sửa đổi bổ sung năm 2009.
Như vậy, bản Cáo trạng số 10/CT-VKS ngày 03/01/2018 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát truy tố bị cáo Đinh Văn L là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo không nhưng xâm ph ạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ mà còn làm ảnh hưởng đến tinh hình trật tự trị an tại đ ịa phương, gây tâm ly hoang mang lo sơ cho qu ần chúng nhân dân. Do đó, Hội đồng xét xử cần xử phạt bị cáo một mức hình phạt tương xứng với tính chất và mức độ phạm tội của bị cáo nhằm răn đe, giáo dục cho bị cáo trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội và phòng ngừa chung.

[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo được cân nhắc, xem xét khi quyết định hình phạt gồm: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2009. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về nhân thân: Ngày 29/3/2011, bị cáo bị Toà án nhân dân thị xã Đ, tỉnh P xử phạt 36 tháng tù về tội: “Cướp tài sản” theo Bản án số 21/2011/HSST. Bị cáo phạm tội khi chưa thành niên. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 12/3/2013, chấp hành xong nghĩa vụ án phí vào ngày 26/5/2011; Ngày 16/7/2013, bị cáo bị Toà án nhân dân thành phố B, tỉnh Đ xử phạt 01 năm tù về tội: “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 412/2013/HSST. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 20/4/2014, chấp hành xong nghĩa vụ về án phí vào ngày 20/12/2013.

Xét hành phạm tội của bị cáo dùng dao nhọn cạy ổ khóa xe mô tô hiệu Honda Winer biển số 61G1 – 547.11 để mở nắp đậy ổ khóa nhằm phá khóa lấy trộm xe nhưng chưa mở được thì đã bị phát hiện bắt giữ. Do đó hành vi của bị cáo thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt theo quy định tại Điều 15 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[4] Xét thấy các điều khoản, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và mức hình phạt mà Kiểm sát viên đề nghị áp dụng đối với bị cáo là phù hợp và có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng:

Đối với 01 xe mô tô hiệu Honda Winer biển số 61G1 – 547.11, màu đỏ đen, số máy KC26E1055500, số khung 2601GY21184. Xét đây là tài sản hợp pháp của người bị hại Nguyễn Thành A. Ngày 13/10/2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã giao trả lại tài sản trên cho anh A là có căn cứ. anh A đã nhận lại tài sản và không yêu cầu giải quyết gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Đối với vật chứng thu giữ là: 01 con dao dài 14cm (cán nhựa màu đỏ dài 07cm, có dán chữ Kiwi, lưỡi dao bằng kim loại dài 07 cm, đầu lưỡi dao nhọn bị cong mũi). Xét đây là công cụ bị cáo sử dụng vào việc phạm tội, không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Căn cứ Điều 15; Điều 57 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106; Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Căn cứ Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1. Về trách nhiệm hình sự:

Tuyên bố bị cáo Đinh Văn L phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Đinh Văn L 20 (hai mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 06/10/2017.

2. Về trách nhiệm dân sự: Đã giải quyết xong.

3. Về xử lý vật chứng:

Tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 (một) con dao dài 14cm (cán nhựa màu đỏ dài 07cm, có dán chữ Kiwi, lưỡi dao bằng kim loại dài 07 cm, đầu lưỡi dao nhọn bị cong mũi).

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/02/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương).

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Đinh Văn L phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

5. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

240
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2018/HS-ST ngày 06/02/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:18/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về