Bản án 17/2021/HSST ngày 20/04/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EA H’LEO, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 17/2021/HSST NGÀY 20/04/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 20/4/2021 tại Tòa án nhân dân huyện Ea H’leo, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 15/2021/TLST-HS ngày 02/4/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2021/QĐXXST- HS ngày 08/4/2021 đối với:

Bị cáo: TRƯƠNG ĐÌNH T, sinh năm 1969 tại tỉnh Thanh Hóa.

Nơi ĐKHKTT: Đội A, xã H, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa; Chỗ ở hiện nay: Không có nơi ở cố định; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 2/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông:

Trương Đình T (đã chết); con bà: Nguyễn Thị U, sinh năm 1940; Tiền sự: Không;

Tiền án: 02, cụ thể:

1/ Bản án số: 392/2016/HSPT ngày 31/10/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xử phạt bị cáo Trương Đình T: 02 năm tù về tội: “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 08/4/2016. Ngày 08/02/2018 đã chấp hành xong hình phạt tù.

2/ Bản án số: 13/2019/HSST ngày 13/3/2019 của Tòa án nhân dân huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk, xử phạt bị cáo Trương Đình T: 01 năm 06 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt người phạm tội quả tang ngày 19/11/2018. Ngày 19/5/2020, bị cáo Trương Đình T chấp hành xong hình phạt tù theo Giấy chứng nhận cháp hành xong án phạt tù số: 323/GCN ngày 19/5/2020 của Trại giam Đắk Trung - Cục C10 thuộc Bộ Công an.

Nhân thân:

1/ Bản án số: 28/HSST ngày 24/10/1995 của Tòa án nhân dân huyện Phước Long, tỉnh Sông Bé (nay là tỉnh Bình Phước) tuyên xử Trương Đình T: 12 tháng tù về tội: “Cố ý gây thương tích” và 12 tháng tù về tội:“Trốn khỏi nơi giam”. Ngày 13/11/1996, bị cáo Trương Đình T đã chấp hành xong án phạt tù theo Giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt tù số: 5098/GCN ngày 13/11/1996 của Trại giam số 1 thuộc Cục V26 – Bộ Nội vụ.

2/ Bản án số: 09/HSST ngày 19/02/1998 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương tuyên xử Trương Đình T: 03 năm tù, về tội: “Trộm cắp tài sản”. Ngày 26/4/2000, bị cáo Trương Đình T đã chấp hành xong án phạt tù theo Giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt tù số: 77/GCN ngày 26/4/2000 của Trại giam số 1 thuộc Cục V26 – Bộ Nội vụ.

3/ Bản án số: 17/HSST ngày 13/4/2001 của Tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước tuyên xử Trương Đình T: 42 tháng tù, về tội:“Trộm cắp tài sản”. Ngày 13/3/2004, bị cáo Trương Đình T đã chấp hành xong án phạt tù theo Giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt tù số: 88/GCN ngày 13/3/2004 của Trại giam An Phước thuộc Cục V26 – Bộ Công an.

4/ Bản án số: 23/2005/HSST ngày 23/11/2005 của Tòa án nhân dân huyện Bù Đốp, tỉnh Bình Phước tuyên xử Trương Đình T: 36 tháng tù, về tội: “Trộm cắp tài sản”. Ngày 04/5/2008, bị cáo Trương Đình T đã chấp hành xong án phạt tù theo Giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt tù số: 636/GCN ngày 04/5/2008 của Trại giam Thủ Đức thuộc Cục V26 – Bộ Công an.

5/ Bản án số: 57/2008/HSST ngày 25/11/2008 của Tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước tuyên xử Trương Đình T: 36 tháng tù, về tội:“Trộm cắp tài sản”. Ngày 29/9/2011, bị cáo Trương Đình T đã chấp hành xong án phạt tù theo Giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt tù số: 1725/GCN ngày 29/9/2011 của Trại giam Thủ Đức thuộc Tổng cục VIII – Bộ Công an.

Bị cáo bị phạm tội quả tang ngày 24/12/2020, hiện đang giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Ea H’Leo – Có mặt.

* Bị hại:Anh Trần Đình T, sinh năm 1991 - Vắng mặt. Địa chỉ: TDP A, thị trấn E, huyện Ea H’Leo, tỉnh Đắk Lắk.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/Chị Hồ Thị Quỳnh N, sinh năm 1989 - Vắng mặt.

Địa chỉ: TDP A, thị trấn E, huyện Ea H’Leo, tỉnh Đắk Lắk.

2/ Ông Trần Đình Y, sinh năm 1965 - Vắng mặt.

Địa chỉ: TDP A, thị trấn E, huyện Ea H’Leo, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Trương Đình T là đối tượng không có việc làm ổn định, thường xuyên sống lang thang và đã nhiều lần bị kết án phạt tù. Ngày 19/5/2020, sau khi chấp hành xong án phạt tù tại Trại gian Đắk Trung, huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk, bị cáo T về địa bàn xã E, huyện Ea H’Leo làm thuê; khoảng 11h ngày 24/12/2020, bị cáo T đi ra thị trấn E để mua đồ ăn thì gặp một số người quen sau đó cùng đi nhậu với những người này; đến khoảng 13h30’ cùng ngày, bị cáo T và những người này cùng đi hát Karaoke; hát được khoảng 15’ T về trước và đi bộ từ đường Trần Phú xuống đường Trần Quốc Toản, thuộc tổ dân phố A, thị trấn E, huyện Ea H’Leo. Khi đi ngang qua nhà kho bán hàng tạp hóa “Thành Huê” của gia đình chị Hồ Thị Quỳnh Nở tổ dân phố A, thị trấn E, phát hiện thấy xe mô tô biển số 47AB - 220.24 có chìa khóa điện ở trên xe; chiếc xe này của anh Trần Đình T trú tại tổ dân phố A, thị trấn E gửi nhờ ở nhà kho của gia đình chị N. Thấy khu vực để xe mô tô không có người trông coi, T nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc xe này nên đi vào dắt xe ra ngoài; cùng lúc này chị N đang ở trong nhà kho quan sát qua Kamera của gia đình, thấy T đang dắt xe mô tô nên chạy ra giữ lại thì chị N bị T dọa đánh; chị N bỏ tay ra, T khởi động xe mô tô nhưng xe không nổ máy, T ngồi lên yên xe dùng hai chân đẩy xe bỏ chạy; chị N vừa đuổi theo vừa tri hô thì được anh Ngô Đăng S, anh Lê Ngọc L và một số người dân ở gần đó đuổi theo T, được khoảng 500 thì bắt được T cùng tang vật.

Tại biên bản kết luận định giá tài sản số: 1144/BB- ĐGTS, ngày 29/12/2020, của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Ea H’Leo, kết luận: 01 xe mô tô biển số: 47AB - 220.24, nhãn hiệu BOSSCITY, mua vào năm 2017, có giá trị là 3.000.000đ.

Bản Cáo trạng số: 17/CT-VKS ngày 01/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea H’Leo truy tố: Bị cáo Trương Đình T về tội: “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo khai: Vào khoảng 13h45’, ngày 24/12/2020 bị cáo Trương Đình T có hành vi lén lút trộm cắp 01 xe mô tô biển số: 47AB - 220.24 của anh Trần Đình T, giá trị xe mô tô 3.000.000đ tại tổ dân phố A, thị trấn E, huyện Ea H’Leo, tỉnh Đắk Lắk thì bị chị Hồ Thị Quỳnh N và một số người người dân phát hiện, bắt giữ cùng tang vật.

Lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát đã đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội của bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt Trương Đình T từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù. Ngoài ra, đề nghị HĐXX giải quyết phần trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng của vụ án.

Bị cáo không tham gia trạnh luận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Ea H’leo, tỉnh Đắk Lắk; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea H’leo, tỉnh Đắk Lắk; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các chứng cứ sau:

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên toà là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập vào hồi 14h30’ ngày 24/12/2020 tại TDP A, thị trấn E, huyện Ea H’leo, tỉnh Đắk Lắk; phù hợp với Phiếu trả lời xác minh phương tiện giao thông đường bộ ngày 25/12/2020 của Công an huyện Ea H’leo; phù hợp với Sơ đồ hiện trường vụ trộm cắp tài sản lập hồi 15h10 ngày 24/12/2020, Biên bản khám nghiệm hiện trường lập hồi 15h30’ ngày 24/12/2020 tại kho tạp hóa Thành Huê ở tại TDP A, thị trấn E, huyện Ea H’leo, tỉnh Đắk Lắk và Bản ảnh hiện trường; phù hợp với Biên bản kết luận số: 1144/BB-ĐGTS ngày 29/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản; phù hợp với lời khai của bị hại, của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Từ những chứng cứ nêu trên, như vậy có đủ căn cứ pháp lý kết luận: Vào khoảng 13h45’, ngày 24/12/2020 bị cáo Trương Đình T trộm cắp 01 xe mô tô biển số:47AB - 220.24, giá trị là 3.000.000đ của anh Trần Đình T tại tổ dân phố A, thị trấn E, huyện Ea H’Leo, tỉnh Đắk Lắk là phạm tội: “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

* Tại Điều 173 của Bộ luật Hình sự quy định:

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

g) Tái phạm nguy hiểm.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo là nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu đối với tài sản của bị hại, mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương, gây hoang mang, lo lắng, bất bình trong quần chúng nhân dân. Bị cáo nhận thức được tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, mọi hành vi chiếm đoạt đều bị trừng trị nghiêm khắc, nhưng do ý thức coi thường pháp luật và vì động cơ vụ lợi nên đã thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo chiếm đoạt tài sản của bị hại với giá trị 3.000.000đ, tuy nhiên bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm nên phải chịu trách nhiệm hình sự theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Do vậy, việc đưa vụ án ra xét xử và áp dụng mức hình phạt nghiêm là cần thiết nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; Quá trình điều tra, cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Do vậy, cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt nhằm thể hiện tính khoan hông, nhân đao cua phap luât.

[5] Về phần trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra người bị hại anh Trần Đình T đã nhận lại tài sản bị mất và không yêu cầu bị cáo bồi thường nên bị cáo Trương Đình T không phải bồi thường cho anh Trần Đình T.

[6] Vật chứng của vụ án: Quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Ea H’Leo đã trả cho anh Trần Đình T là chủ sở hữu nên chấp nhận.

[7] Về án phí: Bị cáo nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1/ Tuyên bố bị cáo Trương Đình T phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt: TRƯƠNG ĐÌNH T: 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt phạm tội quả tang ngày 24/12/2020.

2/ Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 46; khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự.

Áp dụng các Điều 584, 585, 586, và 589 của Bộ luật Dân sự.

- Về phần trách nhiệm dân sự: Bị cáo Trương Đình T không phải bồi thường cho anh Trần Đình T.

- Vật chứng của vụ án: Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea H’Leo đã chuyển chiêc xe mô tô bi ển số 47AB- 220.24 cho anh Trần Đình T.

3/ Về án phí: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Bị cáo Trương Đình T nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

4/ Về kháng cáo: Áp dụng khoản 1, khoản 4 Điều 331; khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

“Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế hành án theo quy định tại cá điều 6, điều 7 và điề 9 Luật THADS; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật THADS”.=

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

241
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 17/2021/HSST ngày 20/04/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:17/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ea H'leo - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về