Bản án 1707/2019/DS-ST ngày 01/10/2019 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

A ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1707/2019/DS-ST NGÀY 01/10/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 01 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai đối với vụ án dân sự thụ lý số 0273/2019/TLST-DS ngày 12 tháng 02 năm 2019 về việc: “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 297/2019/QĐXXST-DS ngày 20 tháng 8 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 223/2019/QĐST-DS ngày 10 tháng 9 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ngân hàng thương mại cổ phần A Địa chỉ: 89 L, phường L, quận Đ, Thành phố Hà Nội Đại diện theo pháp luật: Ông Ngô Chí Q - Chủ tịch Hội đồng quản trị Đại diện theo ủy quyền: Ông Cái Phước C và ông Lê Ngọc D (Giấy ủy quyền số 261203/2019/UQ-PGĐK lập ngày 22 tháng 7 năm 2019) (Vắng mặt) Địa chỉ: Tầng 2, 96 C, Phường M, Quận N, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị đơn: Ông Nguyễn Lê B - Sinh năm: 1974 (Vắng mặt) Địa chỉ: 334/104A C, Phường X, quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, các bản tự khai và các biên bản tại Tòa án, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là ông Cái Phước C và ông Lê Ngọc D trình bày:

Ngày 05/7/2014, ông Nguyễn Lê B có ký với Ngân hàng thương mại cổ phần A (sau đây gọi tắt là Ngân hàng A) giấy đề nghị phát hành kiêm hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng quốc tế. Theo đó, Ngân hàng A đã cấp cho ông B thẻ số 325-P-448648, loại thẻ MC Platinum Credit, hạn mức là 81.000.000 (tám mươi mốt triệu) đồng, với mục đích tiêu dùng cá nhân. Thẻ được mở ngày 09/7/2014.

Sau khi được cấp thẻ tín dụng, ông B đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền là 80.000.000 (tám mươi triệu) đồng, cụ thể:

Ngày 14/7/2014, ông B rút 50.000.000 (năm mươi triệu) đồng.

Ngày 28/7/2014, ông B rút 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng.

Vào ngày 24/10/2014, ông B thanh toán cho Ngân hàng A được 4.000.000 (bốn triệu) đồng, số tiền này được trừ vào số tiền lãi và phí. Sau đó, ông B không thanh toán cho Ngân hàng A bất kỳ khoản tiền nào. Do ông B vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên ngày 25/9/2014 Ngân hàng A đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ gốc còn thiếu là 80.000.000 (tám mươi triệu) đồng sang nợ quá hạn.

Nay, Ngân hàng A yêu cầu ông Nguyễn Lê B thanh toán ngay một lần tổng số tiền còn nợ tạm tính đến ngày 02/7/2019 là 301.345.000 (ba trăm lẻ một triệu ba trăm bốn mươi lăm ngàn) đồng, trong đó tiền gốc là 80.000.000 (tám mươi triệu) đồng, tiền lãi tính đến ngày 02/7/2019 là 218.341.000 (hai trăm mười tám triệu ba trăm bốn mươi mốt ngàn) đồng và phí là 3.004.000 (ba triệu không trăm lẻ bốn ngàn) đồng. Ông B phải thanh toán khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán kể từ ngày 03/7/2019 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc với mức lãi suất theo quy định tại giấy đề nghị phát hành kiêm hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng quốc tế ngày 05/7/2014.

Bị đơn - ông Nguyễn Lê B vắng mặt suốt quá trình tố tụng giải quyết vụ kiện mặc dù Tòa án đã thực hiện thủ tục triệu tập và niêm yết hợp lệ. Ông Dũng cũng không gửi văn bản phản hồi đến Tòa.

Ti phiên tòa, Nguyên đơn vẫn giữ nguyên ý kiến và yêu cầu như trên, cụ thể: Nguyên đơn yêu cầu bị đơn thanh toán ngay một lần sau khi án có hiệu lực pháp luật tổng số tiền còn nợ tạm tính 01/10/2019 là 327.985.082 (ba trăm hai mươi bảy triệu chín trăm tám mươi lăm ngàn không trăm tám mươi hai) đồng, trong đó:

- Nợ gốc là 80.000.000 (tám mươi triệu) đồng.

- Tiền lãi tính đến hết ngày 01/10/2019 là 247.985.082 (hai trămm bốn mươi bảy triệu chín trăm tám mươi lăm ngàn không trăm tám mươi hai) đồng.

Bị đơn phải thanh toán khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán kể từ ngày 02/10/2019 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc với mức lãi suất theo quy định tại giấy đề nghị phát hành kiêm hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng quốc tế ngày 05/7/2014.

Bị đơn - ông Nguyễn Lê B vắng mặt không lý do mặc dù đã được Tòa triệu tập xét xử hợp lệ và cũng không gửi văn bản ý kiến đến phiên tòa.

Ti phần tranh luận, nguyên đơn không có ý kiến tranh luận.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng:

* Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán:

Thông qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án đến thời điểm này thấy rằng Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định tại Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Cụ thể: Thẩm phán xác định, đúng thẩm quyền giải quyết của Tòa án, xác định vụ kiện thuộc trường hợp Viện kiểm sát tham gia phiên tòa; việc cấp, tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng cho đương sự và Viện kiểm sát thực hiện theo đúng quy định từ Điều 170 đến Điều 181 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Tòa án tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ đúng theo quy định tại Điều 209, 210, 211 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

* Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký tại phiên tòa:

Hi đồng xét xử đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

* Về việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng:

Đối với nguyên đơn: Từ khi thụ lý vụ án đến phiên tòa hôm nay nguyên đơn đã thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo đúng quy định tại các Điều 70, Điều 71 Bộ luật tố tụng dân sự.

Đối với bị đơn: Từ khi thụ lý vụ án đến phiên tòa hôm nay bị đơn không thực hiện các quyền, nghĩa vụ theo đúng quy định tại các Điều 70, Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về án phí, do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận toàn bộ nên bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, lời trình bày của đương sự tại phiên tòa, phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Quan hệ tranh chấp trong vụ án là tranh chấp dân sự về Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng. Bị đơn có địa chỉ tại quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh. Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì vụ kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.

[2] Về thủ tục tố tụng:

Đi diện theo ủy quyền của nguyên đơn là ông Cái Phước C và ông Lê Ngọc D có đơn yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt. Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vụ án vắng mặt nguyên đơn.

a đã tống đạt xét xử hợp lệ triệu tập bị đơn tham gia phiên tòa sơ thẩm lần 1 mở ngày 10/9/2019 và lần 2 mở ngày 01/10/2019 nhưng bị đơn vẫn vắng mặt không ý do. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng vụ án mặt bị đơn.

[3] Về yêu cầu của đương sự:

Căn cứ giấy đề nghị phát hành kiêm hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng quốc tế do bị đơn ký tên chủ thẻ chính vào ngày 05/7/2014 cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ kiện đã đủ cơ sở xác định bị đơn đã được nguyên đơn cấp thẻ tín dụng số 325-P- 448648, loại thẻ MC Platinum credit, thẻ được mở vào ngày 09/7/2014, hạn mức là 81.000.000 (tám mươi mốt triệu) đồng với mục đích tiêu dùng cá nhân.

Sau khi được cấp thẻ tín dụng, bị đơn đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền là 80.000.000 (tám mươi triệu) đồng, cụ thể như sau:

- Ngày 14/7/2014, bị đơn rút 50.000.000 (năm mươi triệu) đồng.

- Ngày 28/7/2014, bị đơn rút 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng.

nhưng bị đơn chỉ mới thanh toán được 4.000.000 (bốn triệu) đồng vào ngày 24/10/2019. Như vậy, tính đến ngày 01/10/2019, bị đơn còn nợ nguyên đơn do việc sử dụng thẻ tín dụng nêu trên với tổng số tiền là 327.985.082 (ba trăm hai mươi bảy triệu chín trăm tám mươi lăm ngàn không trăm tám mươi hai) đồng, trong đó:

- Nợ gốc là 80.000.000 (tám mươi triệu) đồng.

- Tiền lãi tính đến hết ngày 01/10/2019 là 247.985.082 (hai trămm bốn mươi bảy triệu chín trăm tám mươi lăm ngàn không trăm tám mươi hai) đồng.

Mặc dù nguyên đơn đã nhiều lần nhắc nhở, tạo điều kiện cho bị đơn trả nợ nhưng từ ngày 25/10/2014 cho đến nay, bị đơn không thanh toán cho nguyên đơn bất kỳ khoản tiền nào đã làm ảnh hưởng đến quyền lợi của nguyên đơn trong một thời gian dài. Do đó, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn thanh toán số tiền gốc và tiền lãi còn nợ là phù hợp với quy định Điều 4 giấy đề nghị phát hành kiêm hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng quốc tế ngày 05/7/2014; Điều 471, Điều 474 Bộ luật dân sự năm 2005; khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010; khoản 1 Điều 1 Thông tư số 12/2010/TT-NHNN ngày 14/4/2010 của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn tổ chức tín dụng cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng theo lãi suất th a thuận; khoản 2 Điều 11 Quy chế cho vay của Tổ chức tín dụng đối với khách hàng được ban hành theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước được sửa đổi, bổ sung bằng Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN ngày 03-2-2005; Điều 8 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao.

Về phía bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia quá trình tố tụng giải quyết vụ án nhưng bị đơn vắng mặt không có lý do trong suốt quá trình Toà án tiến hành điều tra, thu thập chứng cứ và xét xử. Cho thấy, bị đơn đã tự từ b quyền lợi tố tụng của mình.

Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử thiết nghĩ yêu cầu của nguyên đơn hoàn toàn có cơ sở để chấp nhận toàn bộ, cần buộc bị đơn phải thanh toán số tiền 327.985.082 (ba trăm hai mươi bảy triệu chín trăm tám mươi lăm ngàn không trăm tám mươi hai) đồng cho nguyên đơn ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật; bị đơn còn phải tiếp tục trả lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán với mức lãi suất theo quy định tại giấy đề nghị phát hành kiêm hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng quốc tế ngày 05/7/2014 theo như ý kiến phát biểu của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh tại phiên tòa.

[4] Về án phí:

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, án phí dân sự sơ thẩm là 16.399.254 (mười sáu triệu ba trăm chín mươi chín ngàn hai trăm năm mươi bốn) đồng, bị đơn phải chịu do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận toàn bộ.

Nguyên đơn được hoàn lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 6.578.000 (sáu triệu năm trăm bảy mươi tám ngàn) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số 0020306 ngày 25/01/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 146, Điều 147, điểm b khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 471 và Điều 474 Bộ luật dân sự 2005;

Căn cứ vào khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010;

Căn cứ vào Luật phí và lệ phí;

Căn cứ vào Luật thi hành án dân sự;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Áp dụng Án lệ số 08/2016/AL về xác định lãi suất, việc điều chỉnh lãi suất trong hợp đồng tín dụng kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm được công bố theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17/10/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Tuyên xử:

1. Buộc ông Nguyễn Lê B thanh toán cho Ngân hàng thương mại cổ phần A số tiền là 327.985.082 (ba trăm hai mươi bảy triệu chín trăm tám mươi lăm ngàn không trăm tám mươi hai) đồng, trong đó:

- Nợ gốc là 80.000.000 (tám mươi triệu) đồng.

- Tiền lãi tính đến hết ngày 01/10/2019 là 247.985.082 (hai trămm bốn mươi bảy triệu chín trăm tám mươi lăm ngàn không trăm tám mươi hai) đồng.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, ông Nguyễn Lê B còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc với mức lãi suất theo quy định tại giấy đề nghị phát hành kiêm hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng quốc tế ngày 05/7/2014.

Thi hành tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền, ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.

2. Về án phí: Án phí dân sự sơ thẩm là 16.399.254 (mười sáu triệu ba trăm chín mươi chín ngàn hai trăm năm mươi bốn) đồng, ông Nguyễn Lê B phải nộp.

Hoàn lại cho Ngân hàng thương mại cổ phần A số tiền tạm ứng án phí đã nộp 6.578.000 (sáu triệu năm trăm bảy mươi tám ngàn) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số 0020306 ngày 25/01/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.

3. Án xử công khai. Nguyên đơn và bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày niêm yết hoặc tống đạt hợp lệ bản án.

Trưng hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền th a thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

127
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 1707/2019/DS-ST ngày 01/10/2019 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:1707/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Thạnh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 01/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về