Bản án 16/2021/HNGĐ-ST ngày 04/05/2021 về tranh chấp ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂY SƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 16/2021/HNGĐ-ST NGÀY 04/05/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 04 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tây Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 151/2021/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 3 năm 2021 về việc tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2021/QĐST-HNGĐ ngày 07 tháng 4 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị Anh T, sinh năm 1973 (có mặt);

Địa chỉ: Khối P, thị trấn P, huyện T, tỉnh Bình Định.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Quốc D, sinh năm 1976 (có mặt);

Địa chỉ: Khối P, thị trấn P, huyện T, tỉnh Bình Định.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong đơn khởi kiện ngày 22/02/2021, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng nhƣ tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn là bà Huỳnh Thị Anh T trình bày:

- Về hôn nhân: Bà và ông Nguyễn Quốc D tự nguyện quen biết được gia đình hai bên đồng ý tổ chức lễ cưới theo phong tục, chung sống vợ chồng với nhau từ năm 1993 nhưng không có đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Quá trình chung sống, vợ chồng hạnh phúc một thời gian rồi sau đó xảy ra mâu thuẫn với nguyên nhân: Tính tình không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống nên thường xảy ra việc kình cãi nhau. Lần cuối cùng vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, cắt đứt quan hệ từ ngày 15/01/2021 cho đến nay. Tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Quốc D.

- Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Quốc V (giới tính: Nam), sinh ngày 17/5/1994 và Nguyễn Quốc H (giới tính: Nam), sinh ngày 26/10/2007. Đối với con chung tên Nguyễn Quốc V đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết việc nuôi cũng như cấp dưỡng nuôi con. Còn con chung tên Nguyễn Quốc H thì khi nay ở với ông Nguyễn Quốc D, khi ly hôn bà đồng ý để ông D tiếp tục nuôi con đến trưởng thành (theo nguyện vọng của ông D và con), bà không phải thực hiện cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Bà không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này.

* Tại bản tự khai ngày 15/3/2021 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng nhƣ tại phiên tòa sơ thẩm bị đơn là ông Nguyễn Quốc D trình bày:

- Về hôn nhân: Thống nhất như lời trình bày của bà Huỳnh Thị Anh T về việc ông và bà T tự nguyện tìm hiểu, được gia đình hai bên đồng ý tổ chức lễ cưới và chung sống với nhau từ năm 1993 cho đến ngày 15/01/2021 nhưng không có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Sau khi cưới, vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian rồi phát sinh mâu thuẫn với nguyên nhân: Tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống. Do đó giữa ông với bà T sống ly thân từ ngày 15/01/2021 cho đến nay. Mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, tình cảm thật sự không còn nữa nên bà T yêu cầu ly hôn thì ông đồng ý.

- Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Quốc V (giới tính: Nam), sinh ngày 17/5/1994 và Nguyễn Quốc H (giới tính: Nam), sinh ngày 26/10/2007. Đối với con chung tên Nguyễn Quốc V đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết việc nuôi cũng như cấp dưỡng nuôi con. Còn con chung tên Nguyễn Quốc H thì khi nay ở với ông, khi ly hôn yêu cầu được tiếp tục nuôi đến trưởng thành, không yêu cầu bà T phải thực hiện cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Ông không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này.

* Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

- Về tuân theo pháp luật tố tụng: Quá trình tố tụng từ khi thụ lý vụ án đến khi khai mạc phiên tòa, Thẩm phán đã tiến hành đúng và đầy đủ các quy định về thủ tục tố tụng được quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm. Những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của bộ luật tố tụng dân sự.

- Về việc giải quyết vụ án: Bà Huỳnh Thị Anh T và ông Nguyễn Quốc D không có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, do đó đề nghị HĐXX căn cứ Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 48; Khoản 4 Điều 147; Điều 203; Điều 271; Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 14; Điều 15; khoản 2 Điều 53; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình:

+ Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận bà Huỳnh Thị Anh T và ông Nguyễn Quốc D là vợ chồng.

+ Về con chung: Giao con chung tên Nguyễn Quốc H cho ông Nguyễn Quốc D tiếp tục nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành, bà T không phải cấp dưỡng nuôi con, vì ông D không yêu cầu. Đối với con chung tên Nguyễn Quốc V đã trưởng thành, bà T và ông D không yêu cầu về việc nuôi cũng như cấp dưỡng nuôi dưỡng nên miễn xét.

+ Về tài sản chung: Bà T và ông D không yêu cầu giải quyết nên miễn xét.

+ Án phí giải quyết theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Yêu cầu khởi kiện của bà Huỳnh Thị Anh T là loại việc thuộc thẩm quyền của Tòa án theo quy định tại Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn là ông Nguyễn Quốc D hiện đang cư trú tại khối P, thị trấn P, huyện T, tỉnh Bình Định nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Huỳnh Thị Anh T và ông Nguyễn Quốc D tổ chức lễ cưới theo phong tục vào năm 1993 và chung sống cho đến tháng 01/2021 nhưng không có đăng ký kết hôn là vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về việc đăng ký kết hôn: “Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật này và pháp luật về hộ tịch. Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại khoản này thì không có giá trị pháp lý”.

[2.2] Việc bà Huỳnh Thị Anh T và ông Nguyễn Quốc D đều thừa nhận cuộc sống chung vợ chồng có nhiều mâu thuẫn, hôn nhân không hạnh phúc, tình cảm vợ chồng không còn. Do đó việc bà T yêu cầu ly hôn nhưng không có chứng cứ để chứng minh là đã đăng ký kết hôn nên căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 53 của Luật Hôn nhân và gia đình cần xử không công nhận quan hệ giữa bà T và ông D là vợ chồng.

[2.3] Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Quốc V (giới tính: Nam), sinh ngày 17/5/1994 và Nguyễn Quốc H (giới tính: Nam), sinh ngày 26/10/2007. Con chung Nguyễn Quốc V đã trưởng thành, bà T và ông D không yêu cầu Tòa án giải quyết việc nuôi cũng như cấp dưỡng nuôi con nên miễn xét. Ông Dũng được tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung tên Nguyễn Quốc H đến trưởng thành, bà T không phải cấp dưỡng nuôi con (Công nhận sự thỏa thuận của bà T, ông D và nguyện vọng của con chung tên Nguyễn Quốc H). Bà Huỳnh Thị Anh T không trực tiếp nuôi con nhưng bà vẫn có quyền thăm nom, giúp đỡ con chung, không ai có quyền ngăn cản. Vì lợi ích của con, khi cần thiết các bên đều có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

[2.4] Về tài sản chung: Bà Huỳnh Thị Anh T và ông Nguyễn Quốc D không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này nên miễn xét.

[3] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Cần buộc bà Thi phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai số 0004452 ngày 08/3/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tây Sơn, bà Thi đã nộp đủ án phí.

[4] Lời phát biểu ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tây Sơn tại phiên tòa là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 48; Khoản 4 Điều 147; Điều 203; Điều 271; Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;

Căn cứ khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 14; Điều 15; khoản 2 Điều 53; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình;

Áp dụng Luật phí và lệ phí năm 2015, Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận bà Huỳnh Thị Anh T và ông Nguyễn Quốc D là vợ chồng.

2. Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Quốc V (giới tính: Nam), sinh ngày 17/5/1994 và Nguyễn Quốc H (giới tính: Nam), sinh ngày 26/10/2007.

- Con chung Nguyễn Quốc V đã trưởng thành, bà T và ông D không yêu cầu Tòa án giải quyết việc nuôi cũng như cấp dưỡng nuôi con nên miễn xét.

- Con chung Nguyễn Quốc H khi nay ở với ông Nguyễn Quốc D. Ông D được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên Nguyễn Quốc H đến trưởng thành, bà T không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con (Công nhận thỏa thuận giữa ông D, bà T và con chung).

Bà Huỳnh Thị Anh T không trực tiếp nuôi con nhưng bà vẫn có quyền thăm nom, giúp đỡ con chung, không ai có quyền ngăn cản. Vì lợi ích của con, khi cần thiết các bên đều có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: Bà Huỳnh Thị Anh T và ông Nguyễn Quốc D không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này nên miễn xét.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Huỳnh Thị Anh T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ theo biên lai số 0004452 ngày 08/3/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tây Sơn; bà T đã nộp đủ án phí.

5. Quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2021/HNGĐ-ST ngày 04/05/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:16/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tây Sơn - Bình Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về