Bản án 16/2021/HNGĐ-ST ngày 01/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ GIA MẬP, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 16/2021/HNGĐ-ST NGÀY 01/06/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 01 tháng 6 năm 2021, tại Tòa án nhân dân huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước đã xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 222/2020/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 11 năm 2020 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 36/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 27 tháng 4 năm 2021, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Bà Âu Thị H, sinh năm 1983 (Có mặt)

* Bị đơn: Ông Nguyễn Minh Đ, sinh năm 1985 (Vắng mặt)

Cùng địa chỉ: Thôn 4, xã ĐO, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Phần trình bày của nguyên đơn bà Âu Thị H:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà H với ông Đ tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2014 có đăng ký kết hôn tại UBND xã ĐO, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước vào ngày 07 tháng 7 năm 2014. Trong quá trình chung sống vợ chồng không hạnh phúc phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống, dẫn đến thường xuyên cãi nhau, ông Đ có hành vi đánh đập bà H. Sau đó, ông Đ bỏ nhà đi làm, thỉnh thoảng mới về nhưng không chăm lo gia đình, không đưa tiền cho bà chăm lo con cái.

Nay bà H xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà H được ly hôn với ông Đ.

- Về con chung: Trong quá trình chung sống bà H và ông Đ có 02 người con chung là cháu Nguyễn Minh V, sinh ngày 11/12/2014 và cháu Nguyễn Đỗ Q, sinh ngày 28/01/2019, khi ly hôn bà H yêu cầu được trực tiếp nuôi hai con chung.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Bà H yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi hai con chung mỗi tháng 3.000.000 đồng/02 cháu, cho đến khi hai con chung trưởng thành đủ 18 tuổi.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Phần trình bày của bị đơn ông Nguyễn Minh Đ:

Trong quá trình thụ lý, thu thập chứng cứ để giải quyết vụ án, ông Nguyễn Minh Đ đều vắng mặt và không nộp văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng.

* Theo biên bản xác minh ngày 20 tháng 01 năm 2021 tại UBND xã ĐO, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước thôn trưởng thôn 4, xã ĐO có nội dung:

Trong quá trình chung sống tại địa phương bà H, ông Đ có xảy ra nhiều mua thuẫn, vợ chồng thường xuyên cãi nhau, ông Đức thường xuyên đánh đập bà H, bà H có gọi điện báo ban thôn xuống giải quyết nhưng ông Đ không có nhà nên ban thôn không hòa giải được.

* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Gia Mập tại phiên tòa hôm nay:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án:

- Về thụ lý, phân công thẩm phán; xác định tư cách tham gia tố tụng; xác minh thu thập chứng cứ, giao nhận chứng cứ; thủ tục công khai, tiếp cận chứng cứ và hòa giải đã thực hiện đúng theo quy định tại các điều 28, 35, 39, 68, 93, 97, 195, 196, 197, 205, 208, 209 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về thời hạn chuẩn bị xét xử: Thực hiện đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết: Căn cứ các Điều 28, 35 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 51, 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 giải quyết: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn.

+ Về quan hệ hôn nhân: Bà Âu Thị H được ly hôn với ông Nguyễn Minh Đ.

+ Về con chung: Giao 02 người con chung cháu Nguyễn Minh V, sinh ngày 11/12/2014 và cháu Nguyễn Đỗ Q, sinh ngày 28/01/2019 cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi trưởng thành đủ 18 tuổi.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chấp nhận yêu cầu của bà H, buộc ông Đ có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 3.000.000 đồng.

+ Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét giải quyết.

Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết vụ án đúng theo quy định của pháp luật để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật, thẩm quyền và thủ tục tố tụng:

Đây là vụ án hôn nhân và gia đình về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, do nguyên đơn bà Âu Thị H thực hiện quyền khởi kiện. Vì bị đơn ông Nguyễn Minh Đ trú tại thôn 4, xã ĐO, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước. Căn cứ vào các Điều 28, 35, 203 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước.

[2]. Về thủ tục xét xử vắng mặt:

Bị đơn ông Nguyễn Minh Đ đã được tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, Giấy triệu tập để trình bày ý kiến, các Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp,tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, các Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa và Giấy triệu tập để tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Tòa án nhân dân huyện Bù Gia Mập tiến hành xét xử vắng mặt ông Đ.

Bị đơn không nộp văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo mặc dù đã được Tòa án tống đạt, niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng là vi phạm nghĩa vụ giao nộp chứng cứ. Tòa án căn cứ vào tài liệu chứng cứ mà đương sự đã giao nộp và Tòa án thu thập để giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 96 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3]. Về nội dung tranh chấp:

* Về quan hệ hôn nhân: Bà H với ông Đ tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2014 có đăng ký kết hôn tại UBND xã ĐO, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước vào ngày 07 tháng 7 năm 2014. Như vậy hôn nhân giữa bà H, ông Đ là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân gia đình Bà H có yêu cầu được ly hôn với lý do là do vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống, dẫn đến thường xuyên cãi nhau, ông Đ có hành vi đánh đập bà H. Hiện tại bà Hương xác định không còn tình cảm với ông Đ nên yêu cầu được ly hôn.

Quá trình thụ lý và giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập các đương sự để hòa giải hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng ông Đ không chấp hành nên vụ án không tiến hành hòa giải được. Điều này cho thấy ông Đ không có thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng, bà H cũng cương quyết ly hôn. Xét thấy, trong quá trình chung sống thì giữa bà H và ông Đ phát sinh nhiều mâu thuẫn, nhưng cả hai bên đã không có giải pháp để khắc phục, cải thiện cuộc sống vợ chồng, hai bên không còn yêu thương, quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Như vậy, mục đích hôn nhân là xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; các thành viên gia đình có nghĩa vụ tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình không đạt được.

Vì vậy, mâu thuẫn gia đình đã trở nên trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích của hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài nên yêu cầu của bà H được ly hôn với ông Đ là có căn cứ theo quy định tại Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

* Về con chung: Trong quá trình sống chung, giữa bà H và ông Đ có 02 người con chung là cháu Nguyễn Minh V, sinh ngày 11/12/2014 và cháu Nguyễn Đỗ Q, sinh ngày 28/01/2019, khi ly hôn bà H yêu cầu được trực tiếp nuôi hai con chung. Xét thấy, khi cha mẹ ly hôn, việc giao con chưa thành niên cho ai trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cũng phải nhằm đảm bảo cho con sự phát triển tốt nhất cả về thể chất và tinh thần, hiện nay hai con chung đang còn nhỏ và đang ở với bà H, ông Đ hiện nay không có mặt ở địa phương nên cần giao hai con chung cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.

* Về cấp dưỡng nuôi con: Tại phiên tòa bà H yêu cầu ông Đ có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 3.000.000 đồng. Xét thấy, mức cấp dưỡng bà H đưa ra là phù hợp với điều kiện và sự phát triển, học tập của các con chung, nên yêu cầu cấp dưỡng của bà H được chấp nhận.

* Về tài sản chung và nợ chung: Bà H, ông Đ không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.

[4] Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm các đương sự phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 147; khoản 2 Điều 227; Điều 266 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ khoản 1 Điều 56; các điều 57, 59, 60, 62, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Âu Thị H.

1.1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Âu Thị H được ly hôn ông Nguyễn Minh Đ.

Quan hệ hôn nhân giữa bà H và ông Đ chấm dứt kể từ ngày bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

1.2. Về con chung: Giao 02 người con chung là cháu Nguyễn Minh V, sinh ngày 11/12/2014 và cháu Nguyễn Đỗ Q, sinh ngày 28/01/2019 cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi trưởng thành đủ 18 tuổi.

1.3. Về cấp dưỡng nuôi con: Ông Nguyễn Minh Đ có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 3.000.000đ (Ba triệu đồng), thời gian cấp dưỡng từ ngày 01/6/2021 cho đến khi con chung trưởng thành đủ 18 tuổi Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại Điều 82 của Luật này; yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

1.4. Về tài sản chung và nợ chung: Không giải quyết do các đương sự không có yêu cầu.

1.5. Về án phí:

Án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng, bà Âu Thị H phải chịu, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà bà H đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0019480 ngày 10 tháng 11 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước.

Về án phí cấp dưỡng là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) ông Dương Minh Đ phải nộp

2. Quyền kháng cáo:

Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trưng hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2021/HNGĐ-ST ngày 01/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:16/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bù Gia Mập - Bình Phước
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 01/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về