Bản án 161/2019/HNGĐ-ST ngày 25/11/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 161/2019/HNGĐ-ST NGÀY 25/11/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 25 tháng 11 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 911/2019/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 9 năm 2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 188/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 10 năm 2019. Quyết định hoãn phiên tòa số 136/2019/QĐST-HNGĐ ngày 04/11/2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Lê Trọng L, sinh năm 1976; thương tru: Thôn H, xã T, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa; tạm trú: Tổ 40, khu B, khu phố Đ, phường T, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Bích N, sinh năm 1983; tạm trú: Tổ 40, khu B, khu phố Đ, phường T, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 27 tháng 8 năm 2019, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn anh Lê Trọng L trình bày:

Về hôn nhân: Anh Lê Trọng L và chị Nguyễn Thị Bích N tự nguyện yêu nhau, được gia đình hai bên tổ chức lễ cưới, đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhân kết hôn số 07, quyển số 01/2003 tại Ủy ban nhân dân Phường 27, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 02 tháng 01 năm 2003.

Quá trình sông chung thời gian đầu có hạnh phúc. Đến sau, vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do tính tình không hợp nhau, luôn bất đồng quan điểm, không có sự đồng cảm mỗi người có cuộc sống riêng nên không ai quan tâm đến cuộc sống của ai. Vì tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân không có hạnh phúc nên anh L yêu cầu được ly hôn chị N.

Về con chung : Có 02 con chung tên Lê Ngọc Yến L, sinh ngày 19/10/2003 và Lê Ngọc Gia H, sinh ngày 09/10/2008. Sau khi ly hôn, anh L yêu cầu trực tiếp nuôi hai con chung Lê Ngọc Yến L và Lê Ngọc Gia H. Anh L không yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn chị Nguyễn Thị Bích N: Quá trình tố tụng, bị đơn đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án và các tài liệu chứng cứ do nguyên đơn cung cấp. Tòa án đã triệu tập hợp lệ chị N để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 17/10/2019; tham gia phiên tòa vào các ngày 04/11/2019 và 25/11/2019 nhưng chị N vắng mặt không có lý do. Đồng thời, chị N cũng không có ý kiến, yêu cầu đối với yêu cầu khởi kiện của anh L.

- Ngày 07/10/2019, Tòa án xác minh tình trạng hôn nhân, quá trình chung sống giữa anh Lê Trọng L và chị Nguyễn Thị Bích N tại địa phương và được bà Vương Thị Hồng T là cán bộ Hội phụ nữ phường T, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương cung cấp: Quá trình anh Lê Trọng L và chị Nguyễn Thị Bích N sinh sống tại địa phương, chính quyền không tiếp nhận phản ánh từ cơ sở về mâu thuẫn giữa hai anh chị. Do đó không biết rõ giữa hai anh chị có mâu thuẫn như thế nào. Vấn đề con chung, công việc và thu nhập Hội phụ nữ phường cũng không biết nên không cung cấp thông tin được cho Tòa án.

- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An tham gia phiên tòa: Trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến tại phiên tòa sơ thẩm đã bảo đảm tuân thủ đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Xét thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát,Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An nhận định:

[1] Về tố tụng: Bị đơn chị Nguyễn Thị Bích N đã được triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt hai lần liên tiếp không có lý do chính đáng. Căn cứ các điều 227 và 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án không tiến hành hòa giải được và Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về nội dung vụ án: Về quan hệ hôn nhân anh Lê Trọng L và chị Nguyễn Thị Bích N là vợ chồng, có đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số 07, quyển số 01/2003 tại Ủy ban nhân dân Phường 27, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 02 tháng 01 năm 2003 nên là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Quá trình tố tụng anh L xác định: Trước đây do vợ chồng bất đồng quan điểm nên vào năm 2013 chị N đã từng nộp đơn xin ly hôn. Nhưng vì anh L còn thương vợ con nên anh không đồng ý ly hôn. Ngày 10/12/2013, Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An xét xử vụ án đã không chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị N và anh L. Tuy nhiên, khi quay về chung sống với nhau, chị N không quan tâm chăm sóc gia đình. Anh L đã khuyên can nhưng chị N không thay đổi. Nay tình cảm vợ chồng đã không còn nên anh L yêu cầu được ly hôn chị N. Tại biên bản xác minh của Tòa án ngày 07/10/2019, xác định chính quyền địa phương không nhận được trình báo nào của anh L, chị N những lúc anh, chị mâu thuẫn nhau.

[3] Xét thấy mục đích của hôn nhân là nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, hạnh phúc; để đạt được mục đích đó vợ chồng phải chung thủy, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ và tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt. Anh L cho rằng chị N không biết quan tâm gia đình, vợ chồng thường xuyên cãi nhau, mâu thuẫn vợ chồng anh chị đã nghiêm trọng. Chị N tính tình không thay đổi sau nhiều lần anh L khuyên can. Tòa án đã triệu tập chị N có mặt tại Tòa án để trình bày ý kiến nhằm hòa giải, hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng chị N không đến và cũng không có ý kiến, yêu cầu gì. Điều này chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa anh L và chi N đã thật sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cả hai bên đều không muốn hàn gắn. Vì vậy, yêu cầu ly hôn của anh L là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên có căn cứ chấp nhận.

[4] Về con chung: Trong quá trình chung sống, anh Lê Trọng L và chị Nguyễn Thị Bích N có 02 con chung tên Lê Ngọc Yến L, sinh ngày 19/10/2003 và Lê Ngọc Gia H, sinh ngày 09/10/2008. Sau khi ly hôn, anh L yêu cầu được nuôi cả hai con và không yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi con. Quá trình làm việc tại Tòa án, cả hai cháu L và H đều có nguyện vọng được sống cùng anh L. Để đảm bảo quyền lợi và nguyện vọng của các cháu, xét thấy có cơ sở để chấp nhận yêu cầu nuôi cả hai con của anh Lê Trọng L.

[4] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Ghi nhận sự tự nguyện của anh Lê Trọng L không yêu cầu chị Nguyễn Thị Bích N cấp dưỡng nuôi hai con.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Đương sự không có tranh chấp nên Tòa án không giải quyết.

[6] Từ những phân tích trên, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An là có cơ sở chấp nhận.

[7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh Lê Trọng Lý phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, các Điều 271, 273, 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 56, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Lê Trọng L đối với chị Nguyễn Thị Bích N.

- Về quan hệ hôn nhân: Anh Lê Trọng L được ly hôn với chị Nguyễn Thị Bích N (theo giấy chứng nhận kết hôn số 07, quyển số 01/2003 do Ủy ban nhân dân Phường 27, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh cấp vào ngày 02 tháng 01 năm 2003).

- Về con chung: Chị Nguyễn Thị Bích N giao hai con chung tên Lê Ngọc Yến L, sinh ngày 19/10/2003 và Lê Ngọc Gia H, sinh ngày 09/10/2008 cho anh Lê Trọng L trực tiếp nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của anh Lê Trọng L không yêu cầu chị Nguyễn Thị Bích N cấp dưỡng nuôi con.

Sau ly hôn, chị Nguyễn Thị Bích N có quyền chăm sóc, thăm nom, giáo dục con chung, anh L không có quyền cản trở chị N thực hiện quyền này. Vì lợi ích về mọi mặt của các con khi một hoặc cả hai bên đương sự có yêu cầu, Tòa án sẽ quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng.

- Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không có tranh chấp nên Tòa án không giải quyết.

2.Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh Lê Trọng L chịu 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng án phí ly hôn. Khấu trừ vào số tiền 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng tiền án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 0029243 ngày 10/9/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 161/2019/HNGĐ-ST ngày 25/11/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:161/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về