Bản án 15/2018/HS-ST ngày 23/04/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VỊ THỦY - TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 15/2018/HS-ST NGÀY 23/04/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 23 tháng 4 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 11/2018/HSST ngày 27 tháng 3 năm 2018, đối với bị cáo:

- Họ và tên: Nguyễn Văn A, sinh ngày 14/4/2000; Nơi sinh: Vị Thủy, Hậu Giang; Tên gọi khác: Không; Nơi đăng ký thường trú (Chỗ ở): Ấp A, xã V6, huyện V, tỉnh Hậu Giang; Nghề nghiệp: Làm thuê; Chức vụ (đảng, chính quyền, đoàn thể): Không; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 07/12; Cha: Nguyễn Văn Đ, sn 1982; mẹ: Trịnh Thu T, sn 1978; Anh chị em ruột: 02 người; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giam từ ngày 22/01/2018 cho đến nay. (Bị cáo có mặt)

- Người bào chữa chỉ định cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Phúc D - Văn phòng Luật sư Nguyễn Thy, Đoàn luật sư tỉnh Hậu Giang. (Có mặt)

- Người bị hại:

1/ Bà Nguyễn Thị Ngọc H, sinh năm 1987. (Vắng mặt)

2/ Ông Nguyễn Thanh L, sinh năm 1970. (Vắng mặt)

Cùng địa chỉ: Ấp 3, xã Vị Thủy, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Thị P, sinh năm 1956. (Có mặt)

Địa chỉ: Ấp A, thị trấn V1, huyện V, tỉnh Hậu Giang.

- Người làm chứng:

1/ Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1963. (Vắng mặt)

2/ Bà Trần Thị Kim B, sinh năm 1974. (Vắng mặt)

3/ Ông Trần Thanh L, sinh năm 1987. (Vắng mặt)

Cùng địa chỉ: Ấp A, xã V6, huyện V, tỉnh Hậu Giang.

4/ Bà Võ Thị Trúc L, sinh năm 1976. (Vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp A, thị trấn C, huyện Đ, thành phố Cần Thơ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Về hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Văn A theo Cáo trạng truy tố: Vào khoảng 18 giờ ngày 22/8/2017, anh Vương Văn Đủ có tổ chức sinh nhật tại nhà, nên có hỏi mượn xe máy hiệu Dayang, biển kiểm soát 51Z6-2641 của chị Nguyễn Thị Ngọc Hân để đi lấy bánh kem và về đậu trước nhà. Trong tiệc sinh nhật của Đủ có A và Nguyễn Chí Đoàn, Nguyễn Văn Chiều, Phạm Thị Ràng, Mai Hoàng Khiêm. Cả nhóm nhậu đến khoảng 23 giờ cùng ngày thì Đoàn, Chiều và Khiêm đi về, còn lại Đủ, A và chị Ràng. Lúc này, anh Đủ lấy xe anh Đủ định đưa chị Ràng về thì thấy A nằm trên võng nên anh Đủ mới hỏi A “Mày có về không để tao đóng cửa”, A mới trả lời đợi Đủ về nhậu tiếp. Khi anh Đủ chở chị Ràng đi khoảng 15 phút thì bị cáo thấy xe mô tô của chị Hân đậu trước sân nên nảy sinh ý định trộm, bị cáo đi đến chỗ xe đậu, do không thấy chìa khóa nên bị cáo dùng tay bứt dây max, dẫn xe đi một đoạn mới cho xe nổ máy chạy về hướng kênh 2 Đầy. Khi anh Đủ về không thấy bị cáo và xe đâu, nên chạy đi tìm đến gần đến đầu kênh Hai Đầy thì gặp và kêu bị cáo dừng xe lại. Bị cáo quay đầu lại thấy anh Đủ nên cho xe tăng ga chạy về hướng ngã 4 Ổ Bịp và đi thẳng lên huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần Thơ. Anh Đủ rượt theo bị cáo một đoạn nhưng không kịp nên trình báo Công an và báo cho mẹ chị Hân biết việc mất xe. Ngày 24/8/2017 bị cáo A về nhà thì bị Công an huyện Vị Thủy mời lên làm việc, bị cáo đã thừa nhận hành vi trộm cắp tài sản của mình.

Quá trình điều tra, bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của người khác. Cụ thể: Khoảng 22 giờ ngày 20/10/2017, trên đường đi uống cà phê về ngang qua nhà ông Nguyễn Thanh Long, bị cáo nhìn thấy 01 chiếc mô tơ điện, loại 2HP, nhãn hiệu TECO (Phase In Duction) Motor, để ở dưới dàn cưa dĩa, gần đó có cây kềm bằng kim loại (cán bằng nhựa màu vàng-đen, kích thước 18x5,5 cm) và cây tuốc nơ vít bằng kim loại có cán nhựa màu vàng, dài 19cm không ai trông coi nên nảy sinh ý định trộm. Bị cáo lấy cây kềm cắt dây điện và dùng cây tuốc nơ vít mở công tắc điện của mô tơ, rồi dùng kềm bẻ đinh ở chân mô tơ. Sau đó, bị cáo về nhà lấy chiếc ba lô màu đen - đỏ, kích thước 46x40cm, rồi quay lại nhà ông Long lấy mô tơ bỏ vào ba lô đem về nhà để gần chỗ bị cáo ngủ, cầy kềm thì để trên ống kem đánh răng, tuốc nơ víc thì nhét vào vách nhà. Sáng hôm sau nhận được tin báo của ông Long, Công an huyện Vị Thủy đã mời bị cáo mời về trụ sở làm việc. Bị cáo thừa nhận hành vi trộm cắp của mình.

* Tại bản kết luận giám định số 12/KL-HĐ.ĐGTS ngày 22/12/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Hậu Giang kết luận: “Xe mô tô Dayang biển kiểm soát 51Z6-2641 có tổng giá trị là 2.833.000đồng (Hai triệu tám trăm ba mươi ba nghìn đồng)”.

* Tại bản kết luận giám định số 35/KL-HĐ.ĐGTS ngày 02/11/2017 của Hội đồng định giá tài sản thuộc Ủy ban nhân dân huyện Vị Thủy kết luận: “01 mô tơ điện hiệu TECO (Phase in Duction) Motor mua vào năm 2015 có tổng giá trị là 1.250.000đồng (Một triệu hai trăm năm chục nghìn đồng)”.

Như vậy, tổng giá trị tài sản mà bi cáo A đã trộm cắp của người khác là 4.083.000đồng (Bốn triệu không trăm tám mươi ba nghìn đồng).

Ngày 17/01/2018 cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Vị Thủy đã ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và bắt tạm giam đối với Nguyễn Văn An.

* Quá trình điều tra bị cáo A khai nhận đã thực hiện hành vi trôm cắp tài sản của bà Võ Thị Trúc Linh ở ấp Thới Hòa A, TT Cờ Đỏ, huyện Cờ Đỏ, TP Cần Thơ. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vị Thủy đã thông báo cho cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cờ Đỏ xử lý theo thẩm quyền. Do đó, không xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Nguyễn Văn A về hành vi trộm cắp tài sản của bà Linh trong vụ án này.

* Quá trình điều tra, ban đầu bị cáo còn khai nhận cùng với Võ Văn Tuấn thực hiện hành vi trộm cắp xe mô tô trên địa bàn ấp 12, xã Vị Trung, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang. Do không có căn cứ nên cơ quan CSĐT Công an huyện Vị Thủy kết luận không có vụ trộm cắp nào do An cùng Tuấn thực hiện trên địa bàn xã Vị Trung.

* Về trách nhiệm dân sự:

- Người bị hại là Nguyễn Thị Ngọc Hân và Nguyễn Thanh Long đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường thêm.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị Phương (bà ngoại bị cáo): Không yêu cầu bị cáo trả lại 970.000đồng đã bỏ ra sửa chữa xe cho chị Hân thay bị cáo.

* Về vật chứng của vụ án:

- 01 xe mô tô dạng Wave, nhãn hiệu Dayang, biển kiểm soát 51Z6-2641, số máy FMH0090664, số khung B 0090664, màu xanh, đã qua sử dụng. Đã trả cho bà Hân.

- 01 mô tơ điện, loại 2HP, hiệu TECO (Phase in Duction) Motor, trọng lượng 34,5kg, đã qua sử dụng. Đã trả cho ông Long.

- 01 cây kềm bằng kim loại, có cán nhựa màu vàng đen, kích thước 18x 5,5cm, đã qua sử dụng.

- 01 cây tuốc nơ vít bằng kim loại, có cán nhựa màu vàng, dài 19cm, đã qua sử dụng.

- 01 chiếc ba lô màu đen đỏ, kích thước 46x40cm, trên quai có chữ Miti always beside you, đã qua sử dụng.

* Tại phiên tòa bị cáo trình bày: Bị cáo thừa nhận hành vi đã thực hiện như cáo trạng đã truy tố. Quá trình điều tra bị cáo có khai cùng Tuấn trộm cắp ở địa bàn xã Vị Trung, là do giữa bị cáo với Tuấn có mâu thuẫn nên bị cáo cố tình khai nhằm mục đích được giảm nhẹ tội, chứ thực chất bị cáo với Tuấn không có thực hiện hành vi trộm cắp.

* Bà Phương trình bày: Tôi là bà ngoại của bị cáo, có bỏ ra số tiền 970.000đồng để sửa xe cho người bị hại thay bị cáo, tôi không có yêu cầu bị cáo trả lại tiền.

* Tại Cáo trạng số 16/QĐ-KSĐT ngày 27 tháng 3 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vị Thủy truy tố bị cáo Nguyễn Văn A về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự;

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vị Thủy giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, nên Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên nội dung Cáo trạng như đã truy tố. Sau khi phân tích động cơ, mục đích, tính chất, mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn A phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b,i,s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 91, 38, 47 Bộ luật hình sự 2015; xử phạt bị cáo với mức án từ 06 đến 09 tháng tù giam. Đề nghị miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Áp dụng Điều 106, 329 Bộ luật tố tụng hình sự;

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 01 cây kềm bằng kim loại, có cán nhựa màu vàng đen, kích thước 18x 5,5cm, đã qua sử dụng; 01 cây tuốc nơ vít bằng kim loại, có cán nhựa màu vàng, dài 19cm, đã qua sử dụng; 01 chiếc ba lô màu đen đỏ, kích thước 46x40cm, trên quai có chữ Miti always beside you, đã qua sử dụng.

Đối với các vật chứng đã trả cho chủ sở hữu không đặt ra xem xét.

* Luật sư Nguyễn Phúc Duy bào chữa cho bị cáo A thống nhất tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố. Bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã khắc phục hậu quả, học vấn thấp, khi phạm tội chưa đủ 18 tuổi. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1, Điều 173, điểm b,i,s khoản 1,2 Điều 51, Điều 91 Bộ luật hình sự 2015 xử phạt bị cáo mức hình phạt thấp nhất mà Viện kiểm sát đề nghị và cho bị cáo được hưởng án treo.

Bị cáo thống nhất với ý kiến luận tội của đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét theo quy định pháp luật.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Vị Thủy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vị Thủy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Về thủ tục: đối với ông Long, bà Hân và những người làm chứng (Thích, Ba, Liền, Linh) đã được Tòa án triệu tập hợp lệ mà vắng mặt, trước đó những người này đã có lời khai tại Cơ quan điều tra, nên sự vắng mặt của những người này không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Hội đồng xét xử căn cứ Điều 292, 293 Bộ luật tố tụng hình sự xét xử vắng mặt ông Long, bà Hân, bà Thích, bà Ba, ông Liền, bà Linh và dành quyền kháng cáo cho người bị hại theo luật định.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, phù hợp với lời nhận tội của bị cáo giai đoạn điều tra và phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đã xác định được:

Bị cáo Nguyễn Văn A là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu lấy trộm tài sản của ông Long và bà Hân với tổng giá trị tài sản tại phiên tòa xác định được là 4.083.000đồng (Bốn triệu không trăn tám mươi ba nghìn). Nên Viện kiểm sát nhân dân huyện Vị Thủy truy tố bị cáo tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Do vậy việc buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự với mức hình phạt nhất định, cách ly bị cáo với xã hội một thời gian là rất cần thiết nhằm để giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cũng nhằm phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội.

Tuy nhiên, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo tỏ ra ăn năn hối cải, trình độ học vấn thấp nên nhận thức pháp luật có phần hạn chế, tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả, chấp hành tốt quy định nơi giam giữ, người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, khi phạm tội chưa đủ 18 tuổi. Nên Hội đồng xét xử cũng xem xét cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ qui định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự khi quyết định hình phạt nhằm thể hiện tính nhân đạo của pháp luật đối với người phạm tội biết ăn năn hối cải.

Xét mức án mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo nên chấp nhận.

Xét đề nghị của Luật sư về việc cho bị cáo được hưởng án treo là không phù hợp nên không chấp nhận.

Về trách nhiệm dân sự: Những người bị hại không yêu cầu nên không đặt ra xem xét.

Về vật chứng của vụ án: Tịch thu tiêu hủy các vật chứng không còn giá trị sử dụng; tịch thu sung công đối với những vật chứng còn giá trị sử dụng. Đối với các vật chứng đã trao trả cho chủ sở hữu không đặt ra xem xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 Tuyên bố: Bố bị cáo Nguyễn Văn A phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b,i,s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 91, 38, 47 Bộ luật hình sự 2015;

Áp dụng các Điều 106, 292, 293, 329 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn A với mức án 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn phạt tù tính từ ngày 22/01/2018.

Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 (Bốn mươi lăm) ngày để bảo đảm thi hành án.

* Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 01 cây kềm bằng kim loại, có cán nhựa màu vàng đen, kích thước 18x 5,5cm, đã qua sử dụng; 01 cây tuốc nơ vít bằng kim loại, có cán nhựa màu vàng, dài 19cm, đã qua sử dụng; 01 chiếc ba lô màu đen đỏ, kích thước 46x40cm, trên quai có chữ Miti always beside you, đã qua sử dụng.

Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo do khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo là người chưa thành niên.

* Về án phí:

Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Nguyễn Văn A phải nộp 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng).

Bị cáo, người bào chữa, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại có quyền kháng bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết tại địa phương nơi cư trú.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

381
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2018/HS-ST ngày 23/04/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:15/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vị Thuỷ - Hậu Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về