Bản án 15/2018/HS-ST ngày 11/04/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BỈM SƠN, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 15/2018/HS-ST NGÀY 11/04/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 11 tháng 4 năm 2018 tại: Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 13/2018/TLST-HS ngày 27/3/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2018/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 3 năm 2018 đối với bị cáo :

NGUYỄN CHÍ H sinh ngày 27 tháng 12 năm 1988 tại: Xã Đ, huyện Đ, tỉnh T.

Nơi cư trú: khu phố N, phường B, thị xã B tỉnh T; nghề nghiệp: Công nhân công ty cổ phần xi măng B; trình độ văn hoá: 12/12 dân tộc: Kinh giới tính: Nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt nam; Con ông: Nguyễn Chí D sinh năm 1958 và bà: Tống Thị H sinh năm 1965 có vợ là Dương Thùy D sinh năm 1994; có 01 con sinh năm 2012; Tiền án: không; Tiền sự: không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày: 03/10/2017 đến ngày 11/10/2017 được thay thế biện pháp ngăn chặn, bị cáo tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 22 giờ ngày 02/10/2017 Nguyễn Chí H điều khiển xe máy nhãn hiệu Hon da SH biển kiểm soát 28 H1-164.21 đến cổng công an thị xã Bỉm sơn gặp Mai Xuân B sinh năm 1993 trú tại khu phố M, phường P , thị xã B và Phạm Xuân T sinh năm 1996 trú tại đường Nguyễn H, phường N, thị xã B là bạn. Khi đi, H mang theo 01 túi da màu nâu đeo bên hông người và 01 chiếc túi da màu nâu có khóa màu đỏ để trong cốp xe SH. Hai túi trên đều đựng ma túy và các vật dụng cá nhân. Khi đi đến cổng công an thị xã Bỉm sơn gặp B và T, H điều khiển xe máy chở cả ba người đến cổng nhà Nguyễn Gia P sinh năm 1993 trú tại khu phố N, phường B, thị xã B. Tại đây, H rủ B, P, T đến quán karaoke T A 2 ở khu phố X, phường B, thị xã B để hát. Cả ba đồng ý. H điều khiển xe máy chở B,T, P đến cổng quán Karaooke TA thì gặp Lê Thị Phương Y trú tại khu phố Y, phường NT, thị xã B H dừng xe rủ Y cùng vào hát, đồng ý. Khi vào quán karaoke, H cất xe máy vào sân mở cốp xe lấy chiếc túi da màu nâu có khóa  màu đỏ cất dấu trong cốp xe ra cầm ở tay và cùng cả nhóm vào thuê phòng hát số 03 của quán hát . Khi vừa vào phòng H liền ngồi xuống ghế để chiếc túi da màu nâu có khóa màu đỏ lên bàn, lấy đồ dùng sử dụng ma túy đá gồm “ Cóng” thủy tinh, ống hút ra mở nắp chai nước khoáng có sẵn trên bàn do thiếu máy lửa H đứng dậy ra khỏi phòng và đứng ngay hành lang tầng 1 gần cửa phòng hát số 3 gọi lễ tân mang máy lửa vào rồi quay lại phòng hát tiếp tục lắp ráp các dụng cụ sử dụng ma túy thì bị tổ công tác công an phường B phát hiện kiểm tra thu giữ :

+Thu trong túi da đang đeo bên hông phải của Nguyễn Chí H: 05 túi ni lông màu trắng kích thước mỗi túi (1,5 x 1,5) cm, bên trong mỗi túi có chứa các hạt tinh thể dạng đá màu trắng nghi là ma túy đá ( mẫu vật được niêm phong ký hiệu M1); 02 gói nilon màu trắng kích thước ( 10 x 15) cm, bên trong chứa sợi thực vật dạng khô (mẫu vật được niêm phong ký hiệu M5).

+Thu trong túi da màu nâu có khóa màu đỏ của Nguyễn Chí H để trên bản 01 hộp hình trụ bên trong có chứa các sợi thực vật dạng khô (mẫu vật được niêm phong ký hiệu M6); 03 gói nilon màu trắng kích thước mỗi gói (3x3) cm trong đó có 01 gói nilon đựng 01 viên nén màu xanh đường kính khoảng 0,5 cm và hai túi nilon đựng chất bột màu xanh (Mẫu vật được niêm phong ký hiệu M3); 01 gói nion màu trắng kích thước túi khoảng (3 x 3) cm , bên trong chứa chất bột muối màu đỏ (Mẫu vật được niêm phong ký hiệu M2); 02 đoạn ống hút bằng nhựa màu xanh và 01 đoạn ống hút nhựa màu tím mỗi đoạn dài khoảng 5 cm, được bịt kín hai đầu bên trong chứa chất bột màu trắng ( mẫu vật được niêm phong ký hiệu M4).

+ Kiểm tra xe máy nhãn hiệu HONDA SH biển kiểm soát 28 H1-164.21 của Nguyễn Chí H thu giữ trong cốp xe có 01 túi nilon màu đen đỏ bao bì ghi chữ Alabana WiloFire bên trong túi có chứa các sợi thực vật dạng khô ( ký hiệu M5).

+ Thu trên bàn 01“Cóng” thủy tinh, 01 ống hút màu xanh, 01 chai nhựa . Toàn bộ số mẫu vật nghi là ma túy thu giữ nêu trên Nguyễn Chí H khai là ma túy đá, ma túy cỏ và Ma túy “kẹo” của Hùng, mục đích để sử dụng . Tổ công tác tiến hành lập biên bản phạm pháp quả tang và niêm phong tang vật theo quy định. Tổ công tác tiến hành kiểm tra 04 đối tượng còn lại gồm: B, T , Y , P không thu giữ được đồ vật, tài sản gì liên quan đến ma túy.

Tại bản kết luận giám định số 2131/PC 54-MT, ngày 06/10/2017 của phòng kỹ thuật Hình sự công an tỉnh T kết luận:

+ Chất tinh thể dạng đá màu trắng của phong bì niêm phong ký hiệu M1 gửi giám định là ma túy, co tổng trọng lượng 1,229 g ( một phẩy hai hai chín gam) loại Methamphetamine.

Tại bản kết luận giám định số 5469 /C54 ngày 07/12/2017 của Viện khoa họcHình sự , tổng cục Cảnh sát giám định kết luận:

+ 01 túi nilon màu trắng kích thước túi (3 x 3) cm bên trong có chứa chất bột màu đỏ đã bị ẩm ( ký hiệu M2) là ma túy có trọng 0,262 gam loại Methamphetamine.

+ 03( ba ) túi nilon màu trắng kích thước mỗi túi khoảng (3 x3) cm ( phong bì ký hiệu M3) trong đó có :

*01 túi nilon đựng viên nén màu xanh đường kính khoảng 0,5 cm ( ký hiệu M3.1)là ma túy trọng lượng 0,327 g, loại Methamphetamine và MDMA.

* 01 túi nilon màu xanh lam tím (ký hiệu M3.2) là ma túy trọng lượng 0,278 g, loại Methamphetamine và MDMA.

* 01 túi nilon màu xanh lam (ký hiệu M3.2) là ma túy trọng lượng 1,229 g, loại MDMA.

+ 03 đoạn ống hút bằng nhựa mỗi đoạn dài 5 cm, được bịt kín hai đầu bên trong các ống đều chứa chất bột màu trắng ( ký hiệu M4) là ma túy có tổng trọng lượng 1,229 gam loại MDMA.

+ 02 túi nilon màu trắng kích thước túi khoảng (10 x 15) cm, bên trong các túi đều đựng các sợi thực vật dạng khô và 01 ( một) túi nilon màu đen đỏ bao bì ghi chữa Alabama Wilofire bên trong túi chứa các sợi thực vật dạng khô, ký hiệu M5 là ma túy có tổng trọng lượng 3,128 loại Cần sa ( thuộc nhóm : lá, thân, cành, hoa, quả của cây Cần sa)

+ 01 hộp hình trụ màu hồng đường kính khoảng 5 cm cao 4 cm bên trong hộp có đựng các sợi thực vật dạng khô, ký hiệu M6) là ma túy trọng lượng 0,712 g loại Cần sa (thuộc nhóm Lá, thân, cành , hoa , quả của cây Cần sa).

Tổng cộng 3,41 g (ba phẩy bốn mươi mốt) gam ma túy loại Methamphetamine và MĐMA 3,84 gam (ba phẩy tám mươi tư) gam ma túy loại Cần sa (thuộc nhóm Lá, thân, cành , hoa , quả của cây Cần sa).

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Chí H khai nhận toàn bộ hành vi của mình. Về nguồn gốc số ma túy H khai: 5 gói ma túy nhỏ thu giữ trong túi da đeo bên hông phải của H là do trước khi bị bắt khoảng 1 tuần H mua của Trần Xuân H sinh năm 1970 ở khu phố X, phường L , thị xã B giá 1.500.000đ, sau đó cất dấu vào túi da màu nâu luôn đeo bên hông mình mục đích để sử dụng. Khi mua có Vũ Trường G (Giang nấm) ở HT HTR, T cũng có mặt tại nhà H . Cơ quan Cảnh sát điều tra công an thị xã B đã ra lệnh khám xét khẩn cấp nơi ở, đồ vật và tài sản đồng thời gửi giấy triệu tập H đến làm việc nhưng không thực hiện được do H không có nhà đi đâu làm gì gia đình, địa phương không biết do đó chưa có căn cứ chứng minh Trần Xuân H đã bán số ma túy đá trên cho Nguyễn Chí H. Cơ quan điều tra công an Thị xã Bỉm sơn tiếp tục điều tra xác minh làm rõ sẽ xử lý sau. Còn Vũ Trường G khai: Trước khi Nguyễn Chí H bị bắt khoảng 1 tuần G có đến nhà Trần Xuân H ở khu phố N, phường L, thị xã B chơi. Tại đây, G có gặp H nhưng H đến có việc gì thì G không biết và cũng không nhìn thấy việc H và H mua bán trái phép chất ma túy. Vì vậy, không có căn cứ để xử lý đối với Vũ Trường G.

+ Số ma túy là Cần sa Nguyễn Chí H khai mua của một nam thanh niên không quen biết tại thành phố TĐ tỉnh N mục đích để sử dụng nhưng do H không biết tên tuổi địa chỉ của người này việc mua bán diễn ra không ai chứng kiến do đó Cơ quan Cảnh sát điều tra công an Thành phố TĐ, tỉnh NB tiếp tục điều tra làm rõ để xử lý theo quy định của pháp luật.

Số ma túy tổng hợp thu giữ gồm 03 túi trong đó có túi chứa viên nén màu xanh 02 túi chứa chất bột màu xanh; 03 đoạn ống hút chứa chất bột màu trắng , 01 túi chứa chất bột ẩm màu đỏ, H khai đây là ma túy do bạn bè cho trong những lần đi chơi tập thể do thời gian quá lâu nên không nhớ người nào đã cho số ma túy trên nên không có cơ sở để xử lý.

Số tài sản thu giữ của Nguyễn Chí H gồm:

+ 01 chiếc điện thoại di động Iphon 6 Plus màu trắng, đã cũ bên có sim số thuê bao số 0976.677226 ; 01 chiếc điện thoại di động Blackberry Q20 màu xanh, đã cũ, bên trong có sim số thuê bao : 0913.598.368; số tiền 1.500.000đ (Tiền ngân hàng Nhà nước Việt nam); 01 chiếc túi da màu nâu ( dạng túi đeo bên hông thắt lưng) và 01 chiếc túi da màu đen, có khóa kéo màu đỏ.

Quá trình điều tra xác định số tài sản trên không liên quan đến vụ án nên cơ quan cảnh sát điều tra công an thị xã Bỉm sơn đã trả lại cho Nguyễn Chí H .

+ 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda SH màu trắng BKS 28 H1-164.21 do cơ quan điều tra thu giữ của Nguyễn Chí H là tài sản của chị Nguyễn Thị Q (cô ruột của H). Khi H mượn xe làm phương tiện đi làm chị Q không biết H sử dụng vào việc gì nên không có cơ sở để xử lý chị Q. Quá trình điều tra xác định chiếc xe trên không liên quan đến vụ án nên ngày 24/10/2017 cơ quan cảnh sát điều tra công an thị xã B đã trả lại cho chị Q.

Đối với Mai Xuân B, Phạm Xuân T, Nguyễn Gia P , Lê Thị Phương Y được Nguyễn Chí H rủ đến quán Karaoke TA 2 để hát. Những người này không biết H mang theo ma túy và đến để sử dụng ma túy. Mặt khác, việc sử dụng ma túy chưa diễn ra nên không có cơ sở để xử lý đối với B , T , P , Y .

Tại bản cáo trạng số 15/CT-VKSBS ngày 26/03/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm sơn, tỉnh T đã truy tố  Nguyễn Chí H về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 điều 194 BLHS năm 1999 và tại phiên tòa đại điện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bđề nghị HĐXX xử phạt bị cáo với mức án là: 15 ( mười lăm) đến 18 ( mười tám) tháng tù và đề nghị tịch thu tiêu hủy toàn bộ số tang vật đã được giám định được niêm phong trong phong bì số 5469/C54 (TT2) do Viện khoa học hình sự, tổng cục cảnh sát phát hành được dán kín, niêm phong và đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 cóng thủy tinh và 01 ống hút màu xanh, 01 chai nhựa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung của vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã đƣợc tranh tụng tại phiên tòa, hội đồng xét xử nhận định nhƣ sau:

[1] Về thủ tục tố tụng trong quá trình điều tra truy tố xét xử: các cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của bộ luật Tố tụng Hình sự từ các hành vi đến việc ban hành các quyết định tố tụng trong quá trình điều tra truy tố, xét xử vụ án.

[ 2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Chí H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Căn cứ lời khai của bị cáo phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, hội đồng xét xử có đủ  cơ sở khẳng định: Vào khoảng 23 giờ 20 phút ngày 02 /10/2017 tại phòng hát số 3 quán hát karaoke TA2 thuộc khu phố N, phường B, thị xã B tổ công tác công an phường B, thị xã B bắt quả tang Nguyễn Chí H khi đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích để sử dụng. Thu giữ trong túi da đeo bên hông phải của Nguyễn Chí H 05 túi nilon màu trắng bên trong chứa các hạt tinh thể dạng đá màu trắng; 02 gói nilon màu trắng bên trong chứa các sợi thực vật dạng khô. Thu trong túi da màu nâu có khóa màu đỏ để trên bàn 01 hộp hình trụ bên trong có chứa các sợi thực vật dạng khô. 03 gói ni lon màu trắng trong đó có một gói nilon đựng viên viên nén màu xanh và 02 túi nilon dựng chất bột màu xanh ; 01 gói nilon màu trắng bên trong chứa chất một muối màu đỏ; 02 đoạn ống hút bằng nhựa màu xanh và 01 đoạn ống hút nhựa màu tím mỗi đoạn dài 5 cm, bịt kín hai đầu bên trong chứa chất bột màu tím. Thu trong cốp xe máy SH có BKS 28 H1-164.21 của Nguyễn Chí H 01 túi nilon màu đen đỏ bao bì ghi chữ Alanbana WiloFire bên trong có chứa các sợi thực vật dạng khô. Thu trên bàn 01 “ cóng” thủy tinh ; 01 ống hút màu xanh, 01 chai nhựa. Qua giám định các chất nói trên là ma túy tổng cộng gồm có 3,41 g (ba phẩy, bốn mươi mốt gam) loại Methamphetamine và MDMA và 3,84 g (ba phẩy tám mươi tư) gam loại cần sa (thuộc lá, thân, cành, hoa , quả của cây Cần sa. Vì vậy, hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Chí H đã đủ yếu tố cấu thành tội: “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 điều 194 của Bộ Luật Hình sự năm 1999.

[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Xét thấy quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thật thà thành khẩn, nên khi lượng hình bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm p khoản 1 điều 46 BLHS năm 1999. Ngoài ra hội đồng xét xử cũng xét gia đình bị cáo có công với nước (ông ngoại bị cáo là ông Tống Trọng A là liệt sỹ đã hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước) nên HĐXX giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo khoản 2 điều 46 của BLHS năm 1999.

[4] Về nhân thân: Xét bản thân bị cáo là công nhân nhà máy xi măng B , nhân thân chưa có tiền án, tiền sự nên xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Tuy nhiên, HĐXX cũng xét thấy rằng bị cáo sớm đua đòi nghiện chất ma túy không chịu tru dưỡng đạo đức nên cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một khoảng thời gian nhất định để bị cáo tu dưỡng đạo đức phấn đấu trở thành người công dân có ích cho xã hội.

[5] Về tang vật của vụ án : Số ma túy là tang vật của vụ án được niêm phong trong phong bì niêm phong số 5469/C54 (TT2) do Viện khoa học hình sự, tổng cục cảnh sát phát hành được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký của giám định viên Đinh Thị Thơ. Đây là những vật mà nhà nước cấm lưu hành nên căn cứ vào điểm a khoản 2 điều 106 của BLTTHS năm 2015; điểm c khoản 1 điều 41 BLHS năm 1999 tịch thu tiêu hủy toàn bộ tang vật nói trên.

- Đối với 01 cóng thủy tinh và 01 ống hút màu xanh, 01 chai nhựa đây là những vật không có giá trị sử dụng nên căn cứ điểm c khoản 2 điều 106 của BLTTHS năm 2015 tịch thu tiêu hủy tang vật nói trên.

Về án phí:áp dụng khoản 2 điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Quốc hội buộc bị cáo Nguyễn Chí H nộp án phí HSST là 200.000đ

Căn cứ vào những nhận định trên

QUYẾT ĐỊNH

-Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Chí H đã phạm tội : “Tàng trữ trái phép chất ma túy

- áp dụng: Khoản 1 điều 194; điểm p khoản 1 và khoản 2 điều 46 và điều 33 của BLHS năm 1999. Khoản 3 điều 7; điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015; các điểm b, d khoản 1 điều 2 Nghị quyết số 41 ngày 20 tháng 6 năm 2017.

- Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Chí H 15 (mười lăm) tháng tù. Thời gian thụ hình tính từ ngày bắt giam thi hành án, được trừ đi thời gian bị cáo bị tạm giữ từ ngày (3/10/2017 đến ngày 11/10/2017) là 9 ngày.

- Về vật chứng vụ án: điểm c khoản 1 điều 41; điểm a,c khoản 2 điều 106 của BLTTHS năm 2015 tịch thu tiêu hủy số ma túy và các dụng cụ đã được giám định và niêm phong trong phong bì niêm phong số 5469/C54 (TT2) do Viện khoa học hình sự, tổng cục cảnh sát phát hành được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký của giám định viên Đinh Thị T .

_ Tịch thu tiêu hủy 01 cóng thủy tinh và 01 ống hút màu xanh, 01 chai nhựa.

( Tang vật được Cơ quan điều tra công an thị xã Bỉm sơn bàn giao cho chi cục thi hành án Dân sự Bỉm sơn theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26 tháng 3 năm 2018 của chi cục thi hành án Dân sự Bỉm sơn)

Về án phí: áp dụng khoản 2 điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự, khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Quốc hội buộc bị cáo Nguyễn Chí H nộp án phí HSST là 200.000 đ ( hai trăm ngàn đồng). án xử công khai sơ thẩm , bị cáo Nguyễn Chí H được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án ( 11.4.2018).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2018/HS-ST ngày 11/04/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:15/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bỉm Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về