Bản án 1483/2019/HNGĐ-ST ngày 05/11/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1483/2019/HNGĐ-ST NGÀY 05/11/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 05 tháng 11 năm 2019 tại Phòng xử án của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 783/2019/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 6 năm 2019 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 281/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 10 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 226/2019/QĐST- HNGĐ ngày 16 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Trần Thanh T, sinh năm 1976; Địa chỉ: Đường A, phường B, quận C, Thành phố Hồ Chí Minh. (Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)

- Bị đơn: Ông Huỳnh Cao Minh H, sinh năm 1976; Địa chỉ: Đường P, Phường I, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Tại đơn khởi kiện ngày 15 tháng 4 năm 2019 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn - bà Trần Thanh T trình bày:

Bà và ông Huỳnh Cao Minh H tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường B, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 19/01/2006. Ông bà chung sống hạnh phúc đến năm 2010 thì phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng không có sự quan tâm chia sẻ với nhau, ông H không có trách nhiệm với gia đình, thường đi nhậu với bạn bè sau giờ làm việc. Bà đã nhiều lần góp ý nhưng ông H vẫn không thay đổi. Bà và ông H sống riêng, không còn quan tâm đến nhau từ năm 2014 cho đến nay. Bà nhận thấy bà và ông H chung sống không hạnh phúc, khả năng hàn gắn đoàn tụ không còn nên bà khởi kiện yêu cầu:

Về quan hệ hôn nhân: Bà yêu cầu ly hôn với ông H.

Về con chung: Từ khi ly thân cho đến nay, bà nuôi con tên Huỳnh Quốc U, sinh ngày 07/5/2004 và Huỳnh Quốc T, sinh ngày 27/12/2008. Để ổn định cuộc sống và tâm lý của các con, bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được trực tiếp nuôi hai con. Bà có đủ điều kiện để chăm sóc, nuôi dạy các con tốt, bà không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con.

Về chia tài sản khi ly hôn: Bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Tòa án đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án, triệu tập hợp lệ ông H tham gia phiên hòa giải, phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và tham gia phiên tòa nhưng ông H vắng mặt.

3. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật: Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán thực hiện đúng qui định của Bộ luật tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm. Nguyên đơn thực hiện đúng qui định tại Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đúng qui định tại Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Về nội dung vụ án: Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Bà T yêu cầu ly hôn với ông H. Ông H cư trú tại quận G, Thành phố Hồ Chí Minh. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, đây là tranh chấp về ly hôn, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.

[2] Về thủ tục tố tụng:

- Nguyên đơn có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Xét, yêu cầu của nguyên đơn phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

- Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Căn cứ khoản 2 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[3] Về yêu cầu của nguyên đơn: Hôn nhân giữa bà T và ông H là hôn nhân tự nguyện và hợp pháp được pháp luật công nhận theo Giấy chứng nhận kết hôn số 11/2006 quyển số I/P15, ngày 19/01/2006 của Ủy ban nhân dân Phường B, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.

Xét, bà T yêu cầu ly hôn vì bà và ông H đã sống riêng và ly thân từ năm 2014 đến nay, khả năng hàn gắn đoàn tụ không còn. Tòa án triệu tập ông H tham gia phiên hòa giải và phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ nhưng ông H vắng mặt, không nộp (gửi) cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình, không cung cấp tài liệu chứng cứ để xác nhận hoặc phản đối đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, điều này thể hiện ông H không quan tâm đến việc giải tỏa mâu thuẫn, hàn gắn tình cảm vợ chồng. Theo quy định tại khoản 4 Điều 91 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử căn cứ lời trình bày của bà T và các chứng cứ đã thu thập được trong quá trình giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử chấp nhận cho bà T được ly hôn.

Xét, bà T yêu cầu trực tiếp nuôi hai con chung tên Huỳnh Quốc U, sinh ngày 07/5/2004 và Huỳnh Quốc T, sinh ngày 27/12/2008 là phù hợp với nguyện vọng của các trẻ. Để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của trẻ, Hội đồng xét xử giao cho bà T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục các con theo quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình.

Xét, bà T không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con và chia tài sản khi ly hôn nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

[3] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 (ba trăm ngàn) đồng theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016,

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 5, Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 266, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 59, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 và Điều 110 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thanh T được ly hôn với ông Huỳnh Cao Minh H.

Giấy chứng nhận kết hôn số 11/2006 quyển số I/P15, ngày 19/01/2006 của Ủy ban nhân dân Phường B, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh hết hiệu lực.

2. Về con chung: Bà T được trực tiếp, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên Huỳnh Quốc U, sinh ngày 07/5/2004 và Huỳnh Quốc T, sinh ngày 27/12/2008.

Ông H có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc và giáo dục con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Trên cơ sở lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về cấp dưỡng nuôi con và chia tài sản khi ly hôn: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này.

4. Về án phí sơ thẩm: Bà T phải chịu án phí là 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số AA/2018/0000970 ngày 24/6/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà T đã nộp đủ án phí.

5. Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b, 9 Luật thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

6. Về quyền kháng cáo: Đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 1483/2019/HNGĐ-ST ngày 05/11/2019 về ly hôn

Số hiệu:1483/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về