Bản án 1449/2019/HNGĐ-ST ngày 31/10/2018 về ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1449/2019/HNGĐ-ST NGÀY 31/10/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 31 tháng 10 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Gò Vấp xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 1235/2019/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 9 năm 2019 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 300/2019/QĐST-HNGĐ ngày 11 tháng 10 năm 2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Lê Bảo N, sinh năm 1987; Địa chỉ: quận Gò Vấp, TPHCM; Tạm trú: quận 8, TPHCM

Bị đơn: Ông Nguyễn Thế A, sinh năm 1985; Địa chỉ: quận Gò Vấp, TPHCM (Các đương sự có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, lời trình bày của nguyên đơn là bà Nguyễn Lê Bảo N và tài liệu chứng cứ trong hồ sơ thể hiện:

Bà Nguyễn Lê Bảo N và ông Nguyễn Thế A quen biết năm 2006, sống chung, có với nhau một con chung tên Nguyễn Thanh T, sinh ngày 31/8/2007. Sau đó chia tay. Năm 2014 cả hai tiếp tục chung sống có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 65, quyển số 01/2014 do Ủy ban nhân dân phường 10, quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 01/4/2014. Ông bà chung sống có thêm một con chung nữa tên Nguyễn Thế B, sinh ngày 17/4/2015. Cuộc sống vợ chồng có nhiều mâu thuẫn do bất đồng ý kiến nên thường xảy ra cải vã về cách thức sinh hoạt, về cách giáo dục con cái, về cách cư xử với người thân trong gia đình và bạn bè, về lòng tin đối với nhau không còn, do ghen tuông và do bị đánh đập. Từ tháng 01/2019 bà đã dọn khỏi nhà chồng, trở về chung sống với cha mẹ ruột cùng với hai con chung và cuộc sống ba mẹ con đã dần ổn định. Bà N xác định tình cảm dành cho ông Thế A không còn nên yêu cầu ly hôn với ông Thế A để ổn định cuộc sống riêng.

Về con chung: Có hai con chung, hiện các con đều do bà N chăm sóc nuôi dưỡng nên bà đề nghị được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng các con, không yêu cầu ông Thế A cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có tài sản chung.

Bị đơn là ông Nguyễn Thế A khai rằng: Vợ chồng chung sống có bất hòa do tính tình không hòa hợp. Bà N bỏ đi từ tháng 01/2019 cùng với các con nên vợ chồng sống ly thân rất khó hàn gắn tình cảm. Ông thừa nhận những sai sót của bản thân và mong có cơ hội sửa đổi, hàn gắn tình cảm vợ chồng. Bà N không tạo điều kiện hàn gắn, luôn bỏ đi chổ khác mỗi khi ông tới thăm vợ con nên ông không có giải pháp hàn gắn nào trong suốt thời gian qua kể từ tháng 01/2019 đến nay. Ông Thế A không đồng ý ly hôn vì thương các con. Quá trình chuẩn bị xét xử, ông đồng ý để các con tiếp tục chung sống với bà N; Đồng ý việc bà N không yêu cầu ông cấp dưỡng nuôi con. Nhưng ông sẽ chu cấp tự nguyện theo khả năng của mình để thể hiện trách nhiệm của người làm cha. Tài sản chung không có.

Tại phiên tòa hôm nay các đương sự có mặt. Bà N vẫn cương quyết ly hôn, giữ nguyên ý kiến về con chung. Ông Thế A không đồng ý ly hôn; Ông đề nghị được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng trẻ Nguyễn Thế B, giao bà N trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng trẻ Nguyễn Thanh T, cả hai không bên nào cấp dưỡng nuôi con cho bên nào.

Tuy nhiên, bà N không đồng ý.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp, thành phố hồ Chí Minh không tiến hành tố tụng tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Tòa án nhận định:

[1]. Về tố tụng:

1.1 Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền của Tòa án:

Bị đơn có địa chỉ cư trú tại quận Gò Vấp, thành phố Hồ chí Minh nên nguyên đơn gửi đơn khởi kiện ly hôn đến Toà án nhân dân quận Gò Vấp là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Các đương sự thương yêu, tìm hiểu và tự nguyện sống chung có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 65, quyển số 01/2014 do Ủy ban nhân dân phường 10, quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 01/4/2014. Nay có yêu cầu ly hôn, xác định đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp được điều chỉnh bởi Luật hôn nhân và gia đình của Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.

1.2 Về người tham gia tố tụng:

Các đương sự đều có mặt tại phiên tòa xét xử theo quy định tại khoản 1 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Xét yêu cầu của các đương sự:

2.1 Về tình trạng hôn nhân:

Nguyên nhân chính dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng là do cả hai không hợp tính tình nên thường xuyên bất đồng, cải vã, xung đột. Cả hai mất lòng tin đối với nhau nên xảy ra tình trạng ghen tuông. Hiện nay nguyên đơn xác định tình cảm dành cho bị đơn không còn nên yêu cầu ly hôn để ổn định cuộc sống riêng.

Quá trình chuẩn bị xét xử, bị đơn thừa nhận các mâu thuẫn đã xảy ra giữa hai vợ chồng nhưng không đồng ý ly hôn, mong muốn được hàn gắn hạnh phúc vợ chồng nhưng nguyên đơn không tạo điều kiện hàn gắn và không đưa ra được giải pháp khắc phục mẫu thuẫn.

Hi đồng xét xử xét thấy:

Các đương sự thừa nhận tình trạng hôn nhân có mâu thuẫn kéo dài và đã sống ly thân từ tháng 01/2019 đến nay. Tòa án đã tổ chức hòa giải đoàn tụ nhưng không thành. Nguyên đơn cương quyết ly hôn nhưng bị đơn không đồng ý. Nguyên đơn không tạo điều kiện hàn gắn và bị đơn cũng không có giải pháp nào để cải thiện tình cảm vợ chồng trong suốt thời gian qua. Điều này chứng tỏ cuộc sống hôn nhân của các đương sự lâm vào tình trạng mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Cả hai không còn yêu thương, quan tâm, chia sẻ được cuộc sống vợ chồng, nên ly hôn là giải pháp tốt nhất để cả hai tự ổn định cuộc sống riêng của mình. Vì vậy, xét yêu cầu ly hôn của nguyên đơn là có cơ sở và phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

2.2 Về con chung:

Thời gian các đương sự sống ly thân, nguyên đơn là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng các con. Cuộc sống của cả ba mẹ con đã dần đi vào nề nếp, ổn định. Quá trình chuẩn bị xét xử, các bên đương sự không tranh chấp về người trực tiếp nuôi con. Nhưng tại phiên tòa hôm nay, bị đơn lại tranh chấp việc nuôi con mà không đưa ra được tài liệu chứng cứ nào để chứng minh điều kiện về chổ ở, về thu nhập thể hiện khả năng trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Do đó, xét cần thiết giao hai con chung cho nguyên đơn tiếp tục trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Điều này cũng phù hợp nguyện vọng của các trẻ và phù hợp với quy định của Luật hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Nguyên đơn không yêu cầu bị đơn cấp dưỡng nuôi con.

2.3 Về tài sản chung: Các đương sự khai thống nhất không có tài sản chung.

[3] Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQHQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[4] Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp, thành phố hồ Chí Minh không tham gia tiến hành tố tụng tại phiên tòa theo quy định tại khoản 2 Điều 21 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 và khoản 4 Điều 91; khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào các Điều 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Điều 6, 7, 9 và 30 Luật thi hành án dân sự;

Căn cứ Luật phí và lệ phí;

Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQHQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1/ Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Lê Bảo N được ly hôn ông Nguyễn Thế A.

Giấy chứng nhận kết hôn số 65, quyển số 01/2014 do Ủy ban nhân dân phường 10, quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 01/4/2014 không còn hiệu lực.

Về con chung: Giao bà Nguyễn Lê Bảo N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng hai con chung tên Nguyễn Thanh T, sinh ngày 31/8/2007 và Nguyễn Thế B, sinh ngày 17/4/2015 cho đến khi trưởng thành.

Bà N không yêu cầu ông Thế A cấp dưỡng nuôi con.

Ông Nguyễn Thế A không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trường hợp lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm con của người không trực tiếp nuôi con.

Trên cơ sở lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức thì Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Khi có lý do chính đáng, yêu cầu về cấp dưỡng nuôi con có thể thay đổi. Việc thay đổi về cấp dưỡng nuôi con do các bên thỏa thuận; Nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Không có tài sản chung.

2/ Về án phí: Án phí hôn nhân sơ thẩm là 300.000 đồng do bà Nguyễn Lê Bảo N chịu. Cấn trừ vào số tiền 300.000 đồng bà N đã tạm nộp án phí theo biên lai thu số AA/2019/0001634 ngày 20/9/2019 của Chi cục Thi hành án quận Gò Vấp, bà N đã nộp đủ án phí.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

3/ Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 1449/2019/HNGĐ-ST ngày 31/10/2018 về ly hôn

Số hiệu:1449/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về