Bản án 14/2021/HNGĐ-ST ngày 27/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHÚ MỸ, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 14/2021/HNGĐ-ST NGÀY 27/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 27 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 457/2020/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 10 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 99/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 24 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2021/QĐST-HNGĐ ngày 11 tháng 01 năm 2021 giữa:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Kim T, sinh năm 1983. Địa chỉ: khu phố L, thị trấn L, huyện L, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (có mặt).

2. Bị đơn: Ông Hồ Văn B, sinh năm 1977. Địa chỉ: Tổ A, khu phố T, phường P, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kim T trình bày:

Bà và ông Hồ Văn B tự nguyện chung sống, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn L, huyện L, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu theo Giấy chứng nhận kết hôn số 22 ngày 17 tháng 02 năm 2009. Từ năm 2015, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do ông B nhậu nhẹt, say xỉn dẫn đến vợ chồng hay cãi vã, xảy ra xô xát, cuộc sống căng thẳng, không hạnh phúc. Từ năm 2018 đến nay, vợ chồng sống ly thân, bà chuyển về sống với mẹ đẻ tại huyện L, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. ông B và con chung sinh sống tại thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, vợ chồng sống ly thân đã lâu nên bà yêu cầu Tòa án cho bà được ly hôn với ông B.

Về con chung: Vợ chồng có một con chung là Hồ Kim N, sinh ngày 28-02- 2009. Trong thời gian ly thân, bà có thăm và chu cấp cho con; khi ly hôn, bà giao cháu N cho ông B trực tiếp nuôi, bà không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhiều lần triệu tập bị đơn ông Hồ Văn B nhưng ông B vắng mặt và cũng không gửi văn bản thể hiện ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của bà T.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu phát biểu ý kiến:

Về pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự và các văn bản pháp luật có liên quan; nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ theo quy định tại các Điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập nhiều lần nhưng vắng mặt không có lý do, vi phạm quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt nên Tòa án xét xử vắng mặt ông B là phù hợp quy định của pháp luật. Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu theo luật định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, sau khi nghe ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phú Mỹ, Tòa án nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

- Về quan hệ pháp luật tranh chấp: bà T khởi kiện yêu cầu ly hôn, tranh chấp về nuôi con với ông B nên Tòa án xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo quy định tại Khoản 1, Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn có nơi cư trú tại thị xã Phú Mỹ nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu theo quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về sự vắng mặt của bị đơn: ông B đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt nên Tòa án xét xử vắng mặt ông B là phù hợp quy định tại Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân:

Căn cứ lời khai của bà T, Giấy chứng nhận kết hôn số 22 do Ủy ban nhân dân thị trấn L, huyện L, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cấp ngày 17 tháng 02 năm 2009 và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở để xác định: bà T và ông B tự nguyện chung sống, có đăng ký kết hôn nên quan hệ hôn nhân giữa các bên là hợp pháp.

Về tình trạng hôn nhân: Lời khai của bà T trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa phù hợp với kết quả xác minh tại địa phương nên Hội đồng xét xử xác định giữa bà T và ông B có phát sinh mâu thuẫn vợ chồng. Xét thấy, từ khi thụ lý vụ án, Tòa án nhiều lần triệu tập ông B để làm việc, hòa giải nhưng ông B vắng mặt và cũng không có biện pháp gì để vợ chồng đoàn tụ. Tại phiên tòa, mặc dù được Hội đồng xét xử động viên đoàn tụ gia đình nhưng bà T cương quyết yêu cầu ly hôn. Do vậy, Hội đồng xét xử xác định mâu thuẫn giữa vợ chồng bà T, ông B là có thật và đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, áp dụng Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc ly hôn của bà T đối với ông B.

[2.2] Về con chung:

Căn cứ Giấy khai sinh số 106 do do Ủy ban nhân dân thị trấn Long Điền, huyện L, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cấp ngày 27 tháng 3 năm 2009, có cơ sở để xác định: bà T và ông B có một con chung là Hồ Kim N, sinh ngày 28-02-2009.

Xét lời khai của bà T, kết quả xác minh nơi cư trú tại địa phương và xác nhận của ông Võ Trọng D - Hiệu trưởng Trường THCS P, Hội đồng xét xử có cơ sở xác định từ khi vợ chồng sống ly thân đến nay, cháu Hồ Kim N sinh sống với cha và hiện được cho đi học tại Trường THCS P thuộc phường P, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Bản thân cháu N cũng có nguyện vọng sống với cha sau khi cha mẹ ly hôn. Do vậy, để không gây xáo trộn về tâm lý đồng thời đảm bảo cho sự phát triển về tinh thần cũng như quyền lợi mọi mặt của cháu N, Hội đồng xét xử quyết định giao cháu cho ông B trực tiếp nuôi cho đến khi đủ 18 tuổi là phù hợp với quy định tại Điều 58, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và Gia đình.

Về cấp dưỡng: Bà T không cấp dưỡng nuôi con.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà T phải chịu theo luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1, Điều 28; điểm a Khoản 1 Điều 35; điểm a Khoản 1 Điều 39; Điều 227 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và Gia đình; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” của bà Nguyễn Thị Kim T đối với ông Hồ Văn B.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Kim T được ly hôn với ông Hồ Văn B. Về con chung: Giao cháu Hồ Kim N, sinh ngày 28-02-2009 cho ông Hồ Văn B trực tiếp nuôi cho đến khi đủ 18 tuổi. Bà Nguyễn Thị Kim T không cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con chung, trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định pháp luật, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét.

2. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Kim T chịu 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 5881 ngày 01-10-2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. bà T đã nộp xong án phí.

3. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 27-01-2021), nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xét xử phúc thẩm. Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2021/HNGĐ-ST ngày 27/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:14/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phú Mỹ - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về