Bản án 1393/2019/HNGĐ-ST ngày 25/10/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN G, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1393/2019/HNGĐ-ST NGÀY 25/10/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 25/10/2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 475/2019/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 04 năm 2019 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 249/2019/QĐST- HNGĐ ngày 17 tháng 9 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Ngọc H, sinh năm 1978, địa chỉ: Nguyễn Thái S, Phường N, quận G, Tp. Hồ Chí Minh (Vắng mặt).

Bị đơn: Ông Đặng Thái S, sinh năm 1970, địa chỉ Dương Quảng H, Phường N, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 26/03/2019 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc H trình bày:

Bà và ông Đặng Thái S kết hôn vào năm 2006, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường 5, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh theo giấy chứng nhận kết hôn số 197 quyển số 02/2006 ngày 17/10/2006. Quá trình chung sống có hai con chung là Đặng Gia H, sinh ngày 10/7/2007 và Đặng Kim H, sinh ngày 19/6/2009. Sau khi bắt đầu cuộc sống vợ chồng, giữa bà và ông S đã phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là tính tình không hợp, gây gỗ cãi nhau thường xuyên. Nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài và mục đích hôn nhân không đạt được, tình cảm vợ chồng đã hết, nên bà H làm đơn yêu cầu Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp giải quyết cho bà được ly hôn với ông S.

Về con chung: Bà H yêu cầu nuôi dưỡng 02 con chung, không yêu cầu ông S cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có. Theo bản tự khai đề ngày 26/06/2019, bị đơn ông Đặng Thái S xác nhận việc kết hôn và con chung như lời trình bày của bà H. Ông S cho rằng nguyên nhân ly hôn là do bà H mâu thuẫn với mẹ chồng. Tuy nhiên, ông S không đồng ý ly hôn. Nếu phải ly hôn, về con chung, ông S đồng ý giao hai con chung cho bà H nuôi và không cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung không có.

Tòa án tiến hành hòa giải nhưng ông S vắng mặt, căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử theo pháp luật.

Ngày 07/10/2019 bà H có đơn xin xét xử vắng mặt.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp:

Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến thời điểm xét xử thấy rằng Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định tại Điều 48 BLTTDS trong quá trình giải quyết vụ án. Tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên toà sơ thẩm.

Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên toà hôm nay nguyên đơn đã thực hiện đúng các quy định tại Điều 70, 71 và Điều 234 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn không thực hiện đúng các Điều 70 và 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền của Tòa án:

Yêu cầu xin ly hôn của bà Nguyễn Thị Ngọc H đối với ông Đặng Thái S là quan hệ tranh chấp về hôn nhân gia đình, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, theo quy định tại khoản 1 điều 28, điểm a khoản 1 điều 35, điểm a khoản 1 điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về người tham gia tố tụng :

Bị đơn ông S đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Nguyên đơn bà H vắng mặt tại phiên tòa có đơn xin xét xử vắng mặt. Do đó, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông S, bà H là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 điều 227, khoản 1 điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

2 Xét yêu cầu của đươn sự:

Căn cứ giấy chứng nhận kết hôn số 197 quyển số 02/2006 do Ủy ban nhân dân Phường 5, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh cấp cho bà H, ông S ngày 17/10/2006 đã xác định quan hệ hôn nhân giữa bà H và ông S là quan hệ hôn nhân hợp pháp được điều chỉnh bởi Luật hôn nhân gia đình năm 2014.

Bà H yêu cầu được ly hôn với ông S vì cho rằng tính tình không hợp, gây gỗ cãi nhau thường xuyên, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài và mục đích hôn nhân không đạt được, tình cảm vợ chồng đã hết.

Tại bản tự khai ngày 26/6/2019, ông S có nguyện vọng đoàn tụ gia đình. Tuy nhiên, Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng ông S vẫn vắng mặt. Điều này thể hiện ông S không quan tâm đến chuyện hàn gắn tình cảm vợ chồng, bỏ mặc cho Tòa án giải quyết.

Tòa án đã tiến hành xác minh mâu thuẫn gia đình giữa bà H và ông S tại Hội phụ nữ phường 5, quận Gò Vấp, kết quả xác minh cho thấy bà H và ông S đã ly thân được 03 năm, hai người thường xuyên cãi vả, mâu thuẫn giữa bà H với mẹ chồng.

Hội đồng xét xử xét thấy hôn nhân là sự tự nguyện, mục đích của hôn nhân là xây dựng một gia đình ấm no, hạnh phúc, bền vững, là sự nỗ lực phấn đấu, xây dựng của cả hai bên vợ chồng. Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình quy định vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ, thực hiện công việc trong gia đình. Nhưng giữa bà H và ông S đã sống ly thân nhiều năm nay. Nay bà H kiên quyết xin ly hôn cho thấy hôn nhân giữa bà H và ông S đã rơi vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, bà H yêu cầu giải quyết ly hôn với ông S là hoàn toàn có cơ sở, phù hợp với Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử nghĩ nên chấp nhận.

Về con chung: Bà H yêu cầu được nuôi dưỡng hai con chung, không yêu cầu ông S cấp dưỡng nuôi con. Theo nội dung bản tự khai ngày 26/06/2019, ông S cũng đồng ý giao hai con chung cho bà H nuôi dưỡng. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy việc giao hai con chung cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng là có cơ sở và đồng thời phù hợp với nguyện vọng của trẻ Hân và trẻ H là muốn được ở với mẹ. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con đối với ông S cho đến khi bà H có đơn yêu cầu.

Về tài sản chung: Bà H, ông S khai không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về nợ chung: Bà H khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Xét ý kiến của đại diện Viện kiểm sát về việc chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn là có cơ sở.

Về án phí: Án phí hôn nhân sơ thẩm 300.000 đồng bà H chịu.

Bởi các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 228; Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ các Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014;

- Căn cứ khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội; Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thị Ngọc H đối với ông Đặng Thái S.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Ngọc H được ly hôn với ông Đặng Thái S. (Giấy chứng nhận kết hôn số 197 quyển số 02/2006 do Ủy ban nhân dân Phường 5, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh cấp cho bà H và ông S ngày 17/10/2006 không còn giá trị). - Về con chung: Giao hai trẻ Đặng Gia H, sinh ngày 10/7/2007 và Đặng Kim H, sinh ngày 19/6/2009 cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho ông S đến khi nào bà H có đơn yêu cầu.

Ông S có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được cản trở.

Trên cơ sở lợi ích của con, khi cần thiết cha, mẹ, người thân thích; cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con.

- Về tài sản chung: Các đương sự khai không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Về nợ chung: Không xem xét.

2. Về án phí: Án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng bà H chịu, được cấn trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí bà H đã nộp theo biên lai thu số 0000514 ngày 18/04/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Gò Vấp. Bà H đã nộp đủ án phí.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

3. Về quyền kháng cáo:

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 1393/2019/HNGĐ-ST ngày 25/10/2019 về ly hôn

Số hiệu:1393/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về