Bản án 136/2020/HNGĐ-ST ngày 11/03/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU PHÚ, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 136/2020/HNGĐ-ST NGÀY 11/03/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 11 tháng 3 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Phú, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 668/2019/TLST- HNGĐ ngày 04 tháng 12 năm 2019 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 02 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên toà số 28/2020/QĐST-HNGĐ ngày 20 tháng 02 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Tuyết M, sinh năm 1984. Địa chỉ cư trú: tổ 11, ấp Bình Thuận, xã Bình Long, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang.

- Bị đơn: Anh Phạm Văn T, sinh năm 1987. Địa chỉ cư trú: Tổ 11, ấp Bình Thuận, xã Bình Long, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang.

Chị M có mặt tại phiên tòa. Anh T vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 02 tháng 12 năm 2019 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Tuyết M trình bày:

Chị và anh Phạm Văn T do mai mối và tự nguyện tiến đến hôn nhân vào năm 2006, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Bình Long vào năm 2017. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc bên gia đình chồng sau đó, anh chị đi làm ở Bình Dương. Đến năm 2013, anh chị bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh T thường hay cờ bạc, có người phụ nữ khác bên ngoài, nhiều lần chị M khuyên ngăn nhưng anh T vẫn không thay đổi. Anh chị ly thân từ tháng 4/2019, nay cuộc sống hôn nhân không còn hạnh phúc và không thể hàn gắn với nhau, chị M yêu cầu xin ly hôn với anh T. Về con chung: Chị và anh T có 02 con chung là cháu Phạm Trường Vũ, sinh ngày 18/7/2007 và cháu Phạm Trường Tâm, sinh ngày 08/5/2009. Hiện hai cháu đang sống với chị M. Khi ly hôn, chị yêu cầu được tiếp tục nuôi hai con chung, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

- Bị đơn anh Phạm Văn T đã được Tòa án tống đạt các thủ tục tố tụng đúng theo quy định pháp luật nhưng anh không gửi văn bản tự khai và không tham gia tố tụng nên không ghi nhận được ý kiến của anh.

Tại phiên tòa:

Chị M vẫn giữ yêu cầu khởi kiện ly hôn với anh T, yêu cầu được nuôi hai con chung, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung; Tài sản chung, nợ chung: không có.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Phú phát biểu ý kiến:

+ Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án, Hôi đồng xét xử, thư ký phiên tòa và nguyên đơn đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Bị đơn không chấp hành theo giấy triệu tập của Tòa án là vi phạm Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự.

+ Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị M, cho chị M được ly hôn với anh T. Về con chung, giao 02 con chung cho chị M nuôi dưỡng, anh T không cấp dưỡng do chị M không yêu cầu. Về tài sản chung, nợ chung: không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về thẩm quyền giải quyết:

Chị M khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh T, địa chỉ cư trú của anh T là tại ấp BT, xã BL, huyện CP, tỉnh An Giang nên Tòa án nhân dân huyện Châu Phú có thẩm quyền thụ lý, giải quyết vụ án là đúng theo quy định theo khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm b khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[1.2] Về thủ tục tố tụng:

Anh Phạm Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa nhưng anh vắng mặt không có lý do. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh T theo quy định tại khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Chị M và anh T tự nguyện kết hôn nhân và có đăng ký kết hôn vào năm 2007 tại Ủy ban nhân dân xã Bình Long, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang nên công nhận hôn nhân giữa anh chị là hợp pháp. Nay cuộc sống hôn nhân phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng hay cãi vã, anh T cờ bạc, không lo cho gia đình nay tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được, chị yêu cầu được ly hôn với anh T.

[2.2] Tòa án đã thực hiện, cấp, tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh T để anh thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình cũng như trình bày ý kiến đối với yêu cầu của nguyên đơn tuy nhiên cho đến nay anh T vẫn vắng mặt không tham gia phiên họp, hòa giải, xét xử và không gửi văn bản trình bày ý kiến, xem như anh tự từ bỏ quyền lợi của bản thân.

[2.3] Qua xác minh thì địa phương xác định anh T có đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa chỉ ấp Bình Thuận, xã Bình Long, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang. Nhưng về tình trạng hôn nhân cũng như mâu thuẫn của vợ chồng anh T, chị M thì địa phương không biết.

[2.4] Anh chị là vợ chồng thì phải có nghĩa vụ thương yêu, quan tâm, chăm sóc lẫn nhau cũng như chia sẻ, hỗ trợ nhau trong cuộc sống nhưng trên thực tế anh chị đã ly thân từ tháng 4/2019 cho đến nay. Nay chị M yêu cầu ly hôn và anh T cũng không có thiện chí hàn gắn đoàn tụ gia đình, không quan tâm đến yêu cầu ly hôn của chị M. Như vậy cho thấy cuộc sống chung của anh chị không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nếu duy trì hôn nhân cũng không đem lại hạnh phúc cho cả hai do đó yêu cầu ly hôn của chị M với anh T là có cơ sở, phù hợp với quy định pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2.5] Về con chung: Chị M và anh T có 02 con chung tên Phạm Trường Vũ, sinh ngày 18/7/2007 và Phạm Trường Tâm, sinh ngày 08/5/2009. Hiện hai cháu đang sống với mẹ. Khi ly hôn, chị M yêu cầu được nuôi hai cháu. Thiết nghĩ để ổn định tâm lý cũng như cuộc sống sinh hoạt của hai cháu đồng thời cũng phù hợp với nguyện vọng của hai cháu do đó Hội đồng xét xử chấp nhận giao cháu Vũ và cháu Tâm cho chị M tiếp tục nuôi dưỡng. Do chị M không có yêu cầu nên anh T không phải cấp dưỡng nuôi con. Chị M và gia đình không được cản trở anh T trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng con chung. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, hạn chế quyền thăm nom con, thay đổi việc cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật, khi có yêu cầu sẽ được giải quyết thành vụ án khác.

[2.6] Về tài sản chung, nợ chung: Chị M trình bày không có nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết. Tuy nhiên sau khi bản án được ban hành nếu có nguyên đơn xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của anh chị trong thời kỳ hôn nhân thì anh chị phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

[2.7] Về án phí: chị M phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm b khoản 1 Điều 39, Điều 227, Điều 235 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Tuyết M.

- Về hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị Tuyết M được ly hôn với anh Phạm Văn T. Giấy chứng nhận kết hôn số 182, quyển số I ngày 17 tháng 12 năm 2007 của Ủy ban nhân dân xã BL, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang cấp cho chị Nguyễn Thị Tuyết M và anh Phạm Văn T không còn giá trị pháp lý khi bản án có hiệu lực pháp luật. - Về con chung: Chị M và anh T có 02 con chung tên Phạm Trường Vũ, sinh ngày 18/7/2007 và Phạm Trường Tâm, sinh ngày 08/5/2009. Giao cháu Vũ và cháu Tâm cho chị M được tiếp tục nuôi dưỡng. Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung do chị M không yêu cầu.

Chị M và gia đình không được cản trở anh T trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng con chung. Việc nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con chung không cố định. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, hạn chế quyền thăm nom con, thay đổi việc cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật, khi có yêu cầu sẽ được giải quyết thành vụ án khác.

- Về tài sản chung, nợ chung: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về án phí: Chị Nguyễn Thị Tuyết M phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) mà chị M đã nộp theo biên lai thu số 0005982 ngày 04 tháng 12 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Phú.

- Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị Tuyết M có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Phạm Văn T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

259
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 136/2020/HNGĐ-ST ngày 11/03/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:136/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:11/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về