Bản án 134/2020/HNGĐ-ST ngày 25/05/2020 về tranh chấp hôn nhân gia đình giữa anh Bùi Văn H và chị Diệp Thị Y 

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN S, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 134/2020/HNGĐ-ST NGÀY 25/05/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH GIỮA ANH BÙI VĂN H VÀ CHỊ DIỆP THỊ Y 

Ngày 25/5/2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện S mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 33/2020/TLST-HNGĐ, ngày 12 tháng 02 năm 2020 về Tranh chấp hôn nhân và gia đình, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2020/QĐXXST-HNGĐ, ngày 23/4/2020; quyết định hoãn phiên tòa số 18/2020/QĐST-HNGĐ, ngày 08/5/2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Bùi Văn H, sinh năm 1989.

Trú tại: Thôn T, xã H, huyện S, tỉnh Tuyên Quang. Vắng mặt (Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

Bị đơn: Chị Diệp Thị Y, sinh năm 1994.

Trú tại: Thôn T, xã H, huyện S, tỉnh Tuyên Quang. Vắng mặt, không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 08/02/2020, bản tự khai ngày 09/3/2020 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn anh Bùi Văn H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh (Bùi Văn H) với chị Diệp Thị Y kết hôn với nhau vào ngày 25/02/2013, đăng ký kết hôn tại UBND xã H, huyện S, tỉnh Tuyên Quang, trên cơ sở hai bên đều tự nguyện, tự do tìm hiểu và được hai bên gia đình tổ chức cưới hỏi theo phong tục địa phương. Sau khi kết hôn, vợ chồng về sinh sống với gia đình nhà chồng tại thôn T, xã H, huyện S, tỉnh Tuyên Quang. Thời gian đầu vợ chồng hoà thuận, hạnh phúc, đến năm 2014 do điều kiện kinh tế gia đình gặp khó khăn nên chị Y phải đi làm Công ty. Cũng thời gian này vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống sinh hoạt, làm ăn kinh tế, không có tiếng nói chung, chị Y không còn quan tâm đến gia đình, chồng con. Đã nhiều lần hai bên gia đình hòa giải nhưng hai vợ chồng vẫn không thể hòa hợp được. Từ năm 2016 chị Y tự ý bỏ về nhà bố mẹ đẻ sinh sống và vẫn đi làm Công ty, thỉnh thoảng mới về nhà chồng. Anh chị đã ly thân từ năm 2016 đến nay, vợ chồng không còn quan hệ về tình cảm và kinh tế với nhau nữa. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh yêu cầu được ly hôn với chị Diệp Thị Y.

Về con chung: Anh và chị Diệp Thị Y có 01 con chung là cháu Bùi Thanh T, sinh ngày 15/11/2012. Hiện cháu T đang ở cùng anh. Sau khi ly hôn anh đề nghị được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Bùi Thanh T, không yêu cầu chị Y cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản, vay nợ chung: Anh xác định anh và chị Y không có tài sản và vay nợ chung, không đề nghị Tòa án giải quyết Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập chị Diệp Thị Y đến để giải quyết vụ án nhưng chị Y đều không có mặt. Qua xác minh tại địa phương thể hiện: Chị Diệp Thị Y có đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú tại thôn T, xã H, huyện S, tỉnh Tuyên Quang, hiện nay đang đi làm ăn xa, thỉnh thoảng mới về nhà; anh H và chị Y kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký theo quy định của pháp luật. Sau ngày cưới thì vợ chồng anh H và chị Y sinh sống, làm ăn tại thôn T, xã H, huyện S, tỉnh Tuyên Quang. Vợ chồng chung sống với nhau được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống và ly thân từ năm 2016 đến nay.Về con chung: Anh H và chị Y có 01 con chung là cháu Bùi Thanh T, sinh ngày 15/11/2012, hiện cháu T đang ở cùng anh H tại thôn T, xã H, huyện S, tỉnh Tuyên Quang.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án đều đảm bảo đúng quy định.

Về việc giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng các Điều 28, 147, 228, 235, 238, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Xử cho anh Bùi Văn H được ly hôn với chị Diệp Thị Y; giao cháu Bùi Thanh T cho anh Bùi Văn H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Bùi Văn H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Qua xác minh tại chính quyền địa phương thể hiện: Chị Diệp Thị Y có hộ khẩu thường trú tại thôn T, xã H, huyện S, tỉnh Tuyên Quang. Chị Y đi làm ăn xa thỉnh thoảng mới về, không thông báo địa chỉ mới nên hiện tại không rõ chị Y đang ở đâu. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã triệu tập, gia đình đã thông báo cho chị Y nhưng chị Y vẫn không về để giải quyết vụ án. Tòa án đã tiến hành niêm yết công khai các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật, nhưng chị Y không đến Tòa để làm việc và không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện. Đây được xem là trường hợp người bị kiện cố tình che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ nên Tòa án vẫn giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh Bùi Văn H và chị Diệp Thị Y kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, tự do tìm hiểu, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, là hôn nhân hợp pháp. Tuy nhiên, hai vợ chồng chung sống không hòa thuận, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, cuộc sống hôn nhân của anh H và chị Y không hạnh phúc, ly thân từ năm 2016 đến nay và cả hai bên đều không có biện pháp để hàn gắn quan hệ vợ chồng, không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau, nên không thể tồn tại một gia đình hạnh phúc, tiến bộ. Vì vậy, cần chấp nhận yêu cầu của anh Bùi Văn H là xử cho anh Bùi Văn H được ly hôn với chị Diệp Thị Y.

[3] Về con chung: Anh H và chị Y có 01 con chung là cháu Bùi Thanh T, sinh ngày 15/11/2012. Hiện cháu T đang ở cùng anh H. Sau khi ly hôn anh H đề nghị được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không yêu cầu chị Y cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy cháu T có nguyện vọng được ở cùng anh Bùi Văn H, còn chị Y hiện nay không có nơi cư trú ổn định nên cần giao cháu Bùi Thanh T cho anh Bùi Văn H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp.

[4] Về tài sản, vay nợ chung: Anh Bùi Văn H xác định vợ chồng không có tài sản, đất đai, vay nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí và quyền kháng cáo: Anh Bùi Văn H phải nộp án phí sơ thẩm; các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 147, 228, 235, 238, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Bùi Văn H được ly hôn với chị Diệp Thị Y.

2. Về con chung: Giao cháu Bùi Thanh T, sinh ngày 15/11/2012 cho anh Bùi Văn H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Chị Diệp Thị Y không phải cấp dưỡng nuôi con chung và được quyền đi lại thăm con chung, không ai được cản trở

3. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Anh Bùi Văn Hphải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0003217 ngày 11 tháng 02 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện S.

Chị Diệp Thị Ykhông phải nộp án phí.

Anh Bùi Văn H và chị Diệp Thị Y được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

263
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 134/2020/HNGĐ-ST ngày 25/05/2020 về tranh chấp hôn nhân gia đình giữa anh Bùi Văn H và chị Diệp Thị Y 

Số hiệu:134/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sơn Dương - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về