Bản án 132/2020/HN&GĐ-ST ngày 18/05/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

A ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOẰNG HÓA, TỈNH THANH HÓA

BN ÁN 132/2020/HN&GĐ-ST NGÀY 18/05/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 18 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 05/2020/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 01 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 47/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 5 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị C, sinh năm 1981. Có mặt. Địa chỉ: Thôn N, xã C, huyện H, tỉnh Thanh Hóa.

2. Bị đơn: Anh Lê Minh H, sinh năm 1982. Có mặt. Địa chỉ: Thôn N, xã C, huyện H, tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 03/01/2020, bản tự khai, lời khai tại phiên tòa sơ thẩm của nguyên đơn chị Nguyễn Thị C như sau:

Chị Nguyễn Thị C và anh Lê Minh H kết hôn với nhau năm 2003 trên cơ sở tự nguyện, Ủy ban nhân dân xã C cấp Giấy chứng nhận kết hôn. Những năm đầu hôn nhân chung sống hòa thuận, hạnh phúc, nhưng những năm gần đây mâu thuẫn vợ chồng nảy sinh do hai vợ chồng có hai lối sống trái ngược nhau, không tìm được tiếng nói chung trong gia đình, nên mẫu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng. Vợ chồng đã nhiều lần hòa giải nhưng không có kết quả, vợ chồng ly thân từ tháng 8 năm 2019. Chị C xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên làm đơn ly hôn và đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh H.

Về con: Vợ chồng có 04 con chung là Lê Ngọc D, sinh ngày 13/3/2004; Lê Huy H, sinh ngày 21/01/2006; Lê Quang V, sinh ngày 28/12/2009 và Lê Quang Vũ A, sinh ngày 18/8/2015. Nguyện vọng của chị C ly hôn được trực tiếp nuôi cháu Lê Quang Vũ A và để anh H trực tiếp nuôi cháu Lê Ngọc D, Lê Huy H, Lê Quang V và cấp dưỡng tiền nuôi con chung mỗi tháng 1.200.000 đồng với ba cháu anh H nuôi.

Về tài sản và công nợ: Không yêu cầu giải quyết.

Theo bản tự khai và lời khai tại phiên tòa sơ thẩm của bị đơn anh Lê Minh H như sau:

Tôi (H) và cô Nguyễn Thị C kết hôn với nhau năm 2003 là tự nguyện tìm hiểu, kết hôn, có đăng ký kết hôn do Ủy ban nhân dân xã C cấp giấy chứng nhận. Vợ chồng sống với nhau hạnh phúc và có 04 người con.

Vào khoảng tháng 7 năm 2019 cô C có quen một anh thanh niên tên là T, nên anh đã nhiều lần nhắc nhở nhưng không được. Tháng 8/2019 vì yêu thương vợ nên anh có ghen tuông nên đánh chị C hai lần. Cô C đã bỏ nhà ra đi xuống nhà anh T ở cho đến bây giờ. Anh H và gia đình đã nhiều lần lần khuyên và gọi về nhưng chị C vẫn cố tình không về và còn gọi điện cho tình nhân đánh anh H, mặc dù vậy anh H mong muốn cô C về nhà nuôi con và anh vẫn tha thứ cho những sai lầm của chị C.

Về con: Vợ chồng có 04 con chung là Lê Ngọc D, sinh ngày 13/3/2004; Lê Huy H, sinh ngày 21/01/2006; Lê Quang V, sinh ngày 28/12/2009 và Lê Quang Vũ A, sinh ngày 18/8/2015. Nguyện vọng của anh H là nếu phải ly hôn anh sẽ nuôi cả 04 cháu và không yêu cầu chị C cấp dưỡng nuôi con và cô C vĩnh viễn không được gặp con.

Về tài sản: Anh H không có đề nghị gì.

Theo biên bản xác minh về tình trạng hôn nhân ngày 06/5/2020 với Ủy ban nhân dân xã C đã xác định chị C đã bỏ đi từ tháng 8 năm 2019, vợ chồng mâu thuẫn nhiều năm nay, địa phương cũng đã tổ chức hòa giải về đoàn tụ nhưng không có kết quả.

Tại phiên tòa nguyên đơn chị Nguyễn Thị C giữ nguyên yêu cầu khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn với anh Lê Minh H và việc nuôi con giao cả 04 cháu cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng, chị có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.200.000 đồng; bị đơn anh Lê Minh H xin vợ chồng về đoàn tụ để nuôi con, nếu chị C ly hôn thì về con anh nuôi cả 04 cháu và yêu cầu chị Châm cấp dưỡng nuôi con đối với 02 cháu Lê Quang V và Lê Quang Vũ A mỗi tháng mỗi cháu 1.000.000 đồng. Về tài sản hai bên không yêu cầu giải quyết.

Các đương sự không thỏa thuận với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoằng Hóa, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã tuân thủ đầy đủ, đảm bảo trình tự, thủ tục từ khi thụ lý, quyết định đưa vụ án ra xét xử cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án; người tham gia tố tụng đã được thực hiện đầy đủ, đảm bảo đúng các quyền, nghĩa vụ tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện chị C; cho chị Nguyễn Thị C được ly hôn anh Lê Minh H; chấp nhận việc thỏa thuận nuôi con của hai bên là giao cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng, chị C cấp dưỡng nuôi con với hai cháu nhỏ; án phí chị C chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị C và anh Lê Minh H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, được Uỷ ban nhân dân xã C, huyện H cấp giấy chứng nhận kết hôn là hôn nhân hợp pháp.

Vợ chồng sống với nhau bình thường đã có 04 con chung, từ tháng 8 năm 2019 xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng không hợp nhau, anh H cho rằng chị C đã theo người đàn ông khác. Chị C xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên làm đơn ly hôn, anh H không đồng ý ly hôn mong chị C về với con. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, chị C bỏ đi, anh H thừa nhận chị đã có người khác như thế là tình cảm vợ chồng không còn, mục đích anh H xin về đoàn tụ là để nuôi con chứ không phải xuất phát từ tình cảm vợ chồng nên cần xem xét giải quyết cho chị C và anh H ly hôn là phù hợp với với tình trạng hôn nhân hiện nay và theo biên bản xác minh về tình trạng hôn nhân ngày 06/5/2020 với Ủy ban nhân dân xã C.

[2] Về con: Chị C và anh H có 04 con chung là Lê Ngọc D, sinh ngày 13/3/2004; Lê Huy H, sinh ngày 21/01/2006; Lê Quang V, sinh ngày 28/12/2009 và Lê Quang Vũ A, sinh ngày 18/8/2015. Tại phiên tòa chị C và anh H thỏa thuận với nhau là anh H trực tiếp nuôi cháu cả 04 cháu Lê Ngọc D, Lê Huy H, Lê Quang V và Lê Quang Vũ A. Xét thấy việc thỏa thuận nuôi con trên là sự tự nguyện, không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội và phù hợp với nguyện vọng của các cháu là ở với bố (03 cháu lớn đủ từ 7 tuổi trở lên) do đó chấp nhận sự thỏa thuận việc nuôi con chung của anh H và chị C.

Về cấp dưỡng: Chị C tự nguyện cấp dưỡng mỗi tháng 1.200.000 đồng đối với các cháu, anh H đề nghị chị C cấp dưỡng 2.000.000 đồng mỗi tháng đối với hai cháu Lê Quang V và Lê Quang Vũ A. Xét thấy mức yêu cầu cấp dưỡng của anh H 2.000.000 đồng mỗi tháng với hai cháu là phù hợp với mức sinh hoạt hiện nay tại địa phương và anh H nuôi cả bốn cháu nhưng chỉ yêu cầu chị C cấp dưỡng với hai cháu, như vậy yêu cầu của anh H về việc cấp dưỡng nuôi con chung là có căn cứ để chấp nhận.

[3] Về tài sản: Hai bên không yêu cầu giải quyết.

[4] Về án phí: Chị Nguyễn Thị C phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm và án phí dân sự về nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; khoản 4 Điều 147; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Khoản 1 Điều 51; 56; 58; 81; 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình.

Khoản 1 Điều 24; điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

X:

Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị C được ly hôn anh Lê Minh H.

Về con: Chị Nguyễn Thị C và anh Lê Minh H có 04 con chung là Lê Ngọc D, sinh ngày 13/3/2004; Lê Huy H, sinh ngày 21/01/2006; Lê Quang V, sinh ngày 28/12/2009 và Lê Quang Vũ A, sinh ngày 18/8/2015.

Chấp nhận việc thỏa thuận về nuôi con chung: Anh Lê Minh H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Lê Ngọc D, Lê Huy H, Lê Quang V và Lê Quang Vũ A; chị C có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng: Chị Nguyễn Thị C có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với các cháu Lê Quang V và Lê Quang Vũ A mỗi tháng 1.000.000 đồng/cháu (Hai cháu 2.000.000 đồng/tháng). Thời gian cấp dưỡng kể từ tháng 5 năm 2020 đến khi các cháu Lê Quang V và Lê Quang Vũ A đủ tuổi thành niên.

Về án phí: Chị Nguyễn Thị C chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm và 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hoằng Hóa theo biên lai thu số AA/0009709 ngày 03/01/2020. Chị C còn phải thi hành 300.000 đồng.

Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

136
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 132/2020/HN&GĐ-ST ngày 18/05/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:132/2020/HN&GĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoằng Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về