Bản án 13/2021/HNGĐ-ST ngày 19/04/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUY AN, TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 13/2021/HNGĐ-ST NGÀY 19/04/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 19 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuy An, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 179/2020/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 10 năm 2020về tranh chấp “Ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 3 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm 1987 Nơi đăng ký HKTT: Khu phố C, thị trấn C, huyện T, tỉnh Phú Yên Địa chỉ: Thôn Quảng Đức, xã An Thạch, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên

2. Bị đơn: Anh Hồ Văn H, sinh năm 1978 Địa chỉ: Khu phố C, thị trấn C, huyện T, tỉnh Phú Yên Nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện đề ngày 10/9/2020 và được bổ sung tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thanh T trình bày: Chị T và anh Hồ Văn H tự nguyện tìm hiểu và đi đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn năm 2015 tại UBND thị trấn Chí Thạnh, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, nhưng sau đó nảy sinh mâu thuẫn do vợ chồng thường xuyên kình cãi vì bất đồng quan điểm, anh H có thái độ không tôn trọng gia đình chị T.

Đến năm 2019 chị T nộp đơn yêu cầu giải quyết ly hôn, nhưng sau đó rút yêu cầu khởi kiện và Tòa án đình chỉ vụ án. Tuy nhiên, sau đó anh H vẫn không sửa đổi tính tình mà còn cờ bạc, không có trách nhiệm chăm lo cho gia đình, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng nên chị T và anh H không còn chung sống từ tháng 08 năm 2020 cho đến nay. Chị T và anh H không còn tình cảm với nhau, nên yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.

Về con chung: Chị Nguyễn Thị Thanh T thừa nhận vợ chồng có 01 con chung là Hồ Nguyễn Minh P, sinh ngày 23/5/2016, hiện cháu P đang sống với chị. Khi ly hôn chị T yêu cầu được nuôi con chung và yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con 800.000đ/tháng kể từ tháng 4/2021.

Về tài sản chung: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn đã được Tòa án nhân dân huyện Tuy An triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt nên không có lời trình bày.

Tòa án nhân dân huyện Tuy An đã tiến hành hòa giải nhưng không được.

- Tại phiên tòa:Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện;

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy An tham gia phiên tòa phát biểu: Quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa Thẩm phán, Hội đồng xét xử (HĐXX), Thư ký và người tham gia tố tụng là nguyên đơn đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không lý do là vi phạm điều 70, điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn; Về con chung: Giao cháu Hồ Nguyễn Minh P, sinh ngày 23/5/2016 cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng, anh H phải cấp dưỡng nuôi con chung 800.000đ/tháng. Về tài sản: Chị T không yêu cầu nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng. Tòa án nhân dân huyện Tuy An nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Hồ Văn H có đăng ký hộ khẩu thường trú tại khu phố Chí Đức, thị trấn Chí Thạnh, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên và hiện có mặt nơi cư trú nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tuy An.

Quá trình chuẩn bị xét xử, Tòa án đã triệu tập bị đơn hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do, nên căn cứ điểm b Khoản 2 Điều 227 và Khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn tại phiên tòa.

[2] Về nội dung tranh chấp:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thanh T và anh Hồ Văn H tự nguyện tìm hiểu và đi đến hôn nhân, đã đăng ký kết hôn ngày 13/11/2015 tại Ủy ban nhân dân thị trấn Chí Thạnh, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên, nên được coi là hôn nhân hợp pháp.

Theo chị T, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2016 thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm, anh H không tôn trọng gia đình chị T, thường xuyên xúc phạm chị và gia đình chị. Trước đây, chị T khởi kiện ly hôn với anh H, nhưng vì muốn vợ chồng có cơ hội hàn gắn nên đã rút đơn. Nhưng anh H vẫn không thay đổi, vợ chồng vẫn tiếp tục mâu thuẫn, không còn ai quan tâm đến nhau và không còn chung sống từ tháng 8/2020.

Anh H vắng mặt tại phiên tòa, nên phải chịu trách nhiệm về việc không cung cấp tài liệu chứng cứ chứng minh yêu cầu của mình.

Căn cứ vào lời trình bày của nguyên đơn và tài liệu chứng cứ đã được kiểm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định: Ngày 17/10/2019 Tòa án nhân dân huyện Tuy An ban hành quyết định đình chỉ giải quyết vụ án ly hôn số 73/2019/QĐST-HNGĐ giữa chị T, anh H, nhưng vợ chồng không khắc phục do mâu thuẫn kéo dài, nên tình trạng hôn nhân của chị T và anh H là trầm trọng và cả hai cũng không có biện pháp nào để khắc phục mâu thuẫn nên đời sống chung của vợ chồng thực tế không tồn tại vì vậy mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn và đề nghị của Kiểm sát viên, cho chị T được ly hôn với anh H.

- Về con chung: Chị T thừa nhận vợ chồng có 01 con chung là Hồ Nguyễn Minh P, sinh ngày 23/5/2016, hiện cháu P đang sống với chị. Chị T yêu cầu được nuôi dưỡng con chung và yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con 800.000đ/tháng kể từ tháng 4/2021.

Xét thấy, thời gian vợ chồng không sống chung, chị T nuôi dưỡng con chung bảo đảm sự phát triển bình thường của cháu P nên tiếp tục giao cháu P cho chị T nuôi dưỡng;

Về yêu cầu cấp dưỡng: Điều 110 Luật hôn nhân và gia đình quy định: “Cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên…trong trường hợp không sống chung với con…”, do vậy chị T yêu cầu anh H cấp dưỡng cho con 800.000đ/tháng kể từ tháng 4/2021 là có căn cứ nên chấp nhận.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được quyền cản trở.

- Về tài sản chung: Đương sự không yêu cầu nên không giải quyết.

[3] Về án phí sơ thẩm: Chị T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm về ly hôn, anh H phải chịu án phí cấp dưỡng định kỳ theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, 58, 81, 82, 83, 110 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 147, Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tun xư: Chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị Thanh T.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thanh T được ly hôn với anh Hồ Văn H.

2. Về con chung:

- Giao chị Nguyễn Thị Thanh T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Hồ Nguyễn Minh P, sinh ngày 23/5/2016 (cháu P đang sống với chị T).

- Anh Hồ Văn H có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Hồ Nguyễn Minh P mỗi tháng 800.000đ (Tám trăm nghìn đồng); Thời hạn cấp dưỡng từ tháng 4 năm 2021 và chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng khi phát sinh một trong các trường hợp được quy định tại Điều 118 Luật hôn nhân gia đình năm 2014.

- Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Không giải quyết.

4. Về án phí:

- Chị Nguyễn Thị Thanh T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu tiền số 0004424 ngày 07/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tuy An.

- Anh Hồ Văn H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí cấp dưỡng định kỳ.

5. Về quyền khang cao: Nguyên đơn có mặt được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2021/HNGĐ-ST ngày 19/04/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:13/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuy An - Phú Yên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về