Bản án 13/2021/HNGĐ-ST ngày 04/03/2021 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 13/2021/HNGĐ-ST NGÀY 04/03/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 04 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Lâm Đồng, xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 189/2020/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 01 năm 2021, Quyết định hoãn phiên toà số 04/2021/QĐST- HNGĐ ngày 04/02/2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Trần Thị Bích P, sinh năm 1977 Địa chỉ: Thôn 5, xã Lộc T, huyện B, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

2. Bị đơn: Ông Ngô Hữu T, sinh năm 1972 Địa chỉ: Thôn 5, xã Lộc T, huyện B, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 23/7/2020 của nguyên đơn bà Trần Thị Bích P và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Trước khi kết hôn bà P và ông T có thời gian tìm hiểu nhau trong khoảng 01 tháng và đăng ký kết hôn tại UBND xã Lộc T, huyện B, tỉnh Lâm Đồng vào ngày 05/12/1994. Việc sống chung là hoàn toàn tự nguyện, được hai bên gia đình đồng ý và có tổ chức lễ cưới theo phong tục. Trong thời gian sống chung vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân do ông T ham chơi không chăm lo xây dựng cho gia đình nên từ năm 2001 đến năm 2008 vợ chồng sống ly thân với nhau, trong thời gian này ông T không có trách nhiệm gì đối với vợ con. Sau đó, được sự động viên hoà giải của hai bên gia đình và ông T xin lỗi nên bà về tiếp tục sinh sống cùng ông T cho đến đến tháng 7/2020. Tuy nhiên, trong thời gian này vợ chồng tiếp tục xảy ra mâu thuẫn, vợ chồng không có tiếng nói chung, do bất đồng về quan điểm sống và không thống nhất trong việc làm ăn. Khi xảy ra mâu thuẫn, ông T thường xuyên chửi bới, xúc phạm bà và cha mẹ của bà. Do vậy, bà P và ông T không còn sống chung với nhau từ tháng 7/2020 cho đến nay, vợ chồng không quan tâm chăm sóc đến nhau, phần ai người đó sống, ông T không có trách nhiệm gì đối với vợ con. Nay tình cảm vợ chồng không còn nên bà P yêu cầu được ly hôn với ông T.

Về con chung: Trong quá trính sống chung bà P và ông T có 03 người con chung là Ngô Hữu N, sinh này 26/10/1995; Ngô Thị Chăm A, sinh ngày 25/3/2000 và Ngô Bằng Phương T, sinh ngày 31/12/2018. Nay cháu N và cháu A đã đủ 18 tuổi, mạnh khoẻ, sống không phụ thuộc vào bố mẹ nên không yêu cầu Toà án giải quyết; đối với cháu T còn nhỏ bà yêu cầu được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Vợ chồng tự thoả thuận không yêu cầu giải quyết.

Về nợ chung: không có.

Bị đơn ông Ngô Hữu T đã được Toà án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng đều vắng mặt nên không có lời khai.

Tòa án đã tiến hành mở phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải nhưng không được vì lý do ông Ngô Hữu T vắng mặt.

Sau đó, bà Trần Thị Bích P có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải nữa.

Tại phiên tòa hôm nay, bà Trần Thị Bích P vẫn giữ nguyên yêu cầu nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B đã phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xử cho bà Trần Thị Bích P và ông Ngô Hữu T được ly hôn. Về con chung: Đối với con chung là Ngô Hữu N và Ngô Thị Chăm A đã đủ 18 tuổi, mạnh khoẻ, sống không phụ thuộc vào bố mẹ nên không xem xét; đối với con chung là Ngô Bằng Phương T còn nhỏ đề nghị giao cho bà P tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi, bà P không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung nên không xem xét; Về tài sản chung bà P không yêu cầu nên không xem xét; Về nợ chung không có nên không xem xét; Về án phí buộc bà Trần Thị Bích P phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bị đơn ông Ngô Hữu T đã được Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng vắng mặt không có lý do, không vì sự kiện bất khả kháng hay trở ngại khách quan nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 228 và Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền: Nguyên đơn bà Trần Thị Bích P khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông Ngô Hữu T nên xác định quan hệ tranh chấp “Ly hôn” và thuộc thẩm quyền của Tòa án giải quyết theo quy định khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về nội dung vụ án:

3.1 Về quan hệ hôn nhân: Bà P và ông T tự nguyện đăng ký kết hôn tại UBND xã Lộc T, huyện B, tỉnh Lâm Đồng vào ngày 05/12/1994 là hôn nhân hoàn toàn tự nguyện, hợp pháp và được pháp luật bảo vệ.

Theo bà P trình bày quá trình sống chung vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân do ông T ham chơi không chăm lo xây dựng cho gia đình nên từ năm 2001 đến năm 2008 vợ chồng sống ly thân với nhau. Sau đó, được sự động viên hoà giải của hai bên gia đình và ông T xin lỗi nên bà trở về tiếp tục sống chung cùng ông T cho đến đến tháng 7/2020. Tuy nhiên, trong thời gian này vợ chồng tiếp tục xảy ra mâu thuẫn, vợ chồng không có tiếng nói chung, do bất đồng về quan điểm sống và trong việc xây dựng kinh tế gia đình. Khi xảy ra mâu thuẫn, ông T thường xuyên chửi bới, xúc phạm bà và cha mẹ của bà. Do vậy, bà P và ông T không còn sống chung với nhau từ tháng 7/2020 cho đến nay, vợ chồng không quan tâm chăm sóc đến nhau nữa.

Tại biên bản xác minh ngày 11/12/2020, chính quyền địa phương nơi bà P và ông T sinh sống cho biết: mâu thuẫn vợ chồng giữa bà P và ông T xảy ra từ năm 2001 nên bà P bỏ về nhà mẹ đẻ để sinh sống từ năm 2001 đến năm 2008, thời gian này vợ chồng sống ly thân với nhau. Từ năm 2008, bà P trở về sống chung với ông T đến năm 2020. Tuy nhiên, trong thời gian này vợ chồng sống chung không hạnh phúc, tiếp tục xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính tình của ông T nóng nảy, thường nhậu nhẹt, không nghe lời vợ. Từ tháng 7/2020 đến nay vợ chồng không còn sống chung với nhau nữa.

Mặt khác, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập hợp lệ ông Ngô Hữu T đến Tòa án để trình bày ý kiến về việc bà P xin ly hôn, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông Ngô Hữu T đều vắng mặt không có lý do, không vì sự kiện bất khả kháng hay trở ngại khách quan. Chứng tỏ ông Ngô Hữu T có thái độ bỏ mặc, không có thiện chí hòa giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng, muốn dây dưa kéo dài gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án.

Nay bà Trần Thị Bích P cương quyết xin được ly hôn với ông Ngô Hữu T. Điều đó càng chứng tỏ trong thời gian qua, bà P và ông T sống chung không hạnh phúc, mâu thuẫn vợ chồng thường xuyên xảy ra làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, áp dụng Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, xử cho bà Trần Thị Bích P và ông Ngô Hữu T được ly hôn là có cơ sở và đúng pháp luật.

3.2 Về con chung: Bà P và ông T có 03 người con chung là Ngô Hữu N, sinh này 26/10/1995; Ngô Thị Chăm A, sinh ngày 25/3/2000 và Ngô Bằng Phương T, sinh ngày 31/12/2018. Nay con chung là Ngô Hữu N và Ngô Thị Chăm A đã đủ 18 tuổi, mạnh khoẻ, sống không phụ thuộc vào bố mẹ nên không xem xét; đối với con chung là Ngô Bằng Phương T từ khi vợ chồng không còn sống chung với nhau cho đến nay do bà P trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc vẫn phát triển bình thường. Nay bà P yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung đến khi đủ 18 tuổi. Còn ông T được Toà án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng đều vắng mặt nên không thể hiện ý chí, nguyện vọng về quyền nuôi con. Xét thấy, cháu Ngô Bằng Phương T còn quá nhỏ, cần sự quan tâm chăm sóc trực tiếp của người mẹ và sự ổn định trong cuộc sống. Do vậy, Hội đồng xét xử thấy rằng cần tiếp tục giao con chung là Ngô Bằng Phương T, sinh ngày 31/12/2018 cho bà P tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi đủ 18 tuổi là phù hợp với quy định của pháp luật, bà P không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung nên không xem xét.

3.3 Về tài sản chung: Bà P không yêu cầu nên không xem xét.

3.4 Về nợ chung: Trong thời gian sống chung, vợ chồng không có nợ chung nên không xem xét.

[4] Về án phí: Căn cứ Điều 143, Điều 144, Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; bà Trần Thị Bích P xin ly hôn nên buộc bà P phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 143, Điều 144, Điều 147, Điều 228, Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 39 Bộ luật dân sựNghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc “Ly hôn” của nguyên đơn bà Trần Thị Bích P với bị đơn ông Ngô Hữu T.

Xử cho bà Trần Thị Bích P được ly hôn với ông Ngô Hữu T.

2. Về con chung: Giao con chung là Ngô Bằng Phương T, sinh ngày 31/12/2018 cho bà Trần Thị Bích P tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi đủ 18 tuổi, bà P không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung nên không xem xét.

Quyền đi lại thăm nom con, chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục con; quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con; thay đổi mức cấp dưỡng được thực hiện theo quy định của luật hôn nhân và gia đình.

3. Về tài sản chung: Không xem xét.

4. Về nợ chung: Không có.

5. Về án phí: Buộc bà Trần Thị Bích P phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền 300.000 đồng bà Trần Thị Bích P đã nộp tạm ứng án phí tại biên lai thu tiền số AA/2016/0019891 ngày 09/10/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện B, bà Trần Thị Bích P đã nộp đủ án phí.

6. Về quyền kháng cáo: Án xử công khai, nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

“Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

137
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2021/HNGĐ-ST ngày 04/03/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:13/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bảo Lâm - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về