Bản án 1302/2019/HNGĐ-ST ngày 27/11/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 8, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1302/2019/HNGĐ-ST NGÀY 27/11/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 27 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 1112/2018/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 12 năm 2018 về “tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 207/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 10 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 175/2019/QĐST-HNGĐ ngày 13 tháng 11 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Đỗ Thị Hồng Kim T sinh năm 1982 Địa chỉ hộ khẩu: 2273/26 PTH, Phường E, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh.

Hiện cư trú: 1728 PTH, Phường E, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh. (có đơn xin vắng mặt)

2. Bị đơn: Ông Phan Ngọc Gi, sinh năm 1981 Địa chỉ: 2273/26 PTH, Phường E, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo Đơn khởi kiện đề ngày 20/9/2018 và quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn – bà Đỗ Thị Hồng Kim T trình bày: bà và ông Phan Ngọc Gi chung sống có đăng ký kết hôn vào năm 2000 tại Ủy ban nhân dân Phường E, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh. Trong thời gian chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do ông Gi không lo làm ăn, không có trách nhiệm, vô tâm với các con; những lúc con bệnh chỉ có mình bà lo lắng và chăm sóc nên vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Bà T đã nhiều lần khuyên ông Gi thay đổi, lo làm ăn, cùng bà chăm sóc con cái nhưng ông Gi không thay đổi. Hai bên đã ly thân đến nay được 03 năm, bà và hai con đã về nhà mẹ ruột sống từ đó cho đến nay. Do tình cảm vợ chồng không còn, gia đình không hạnh phúc nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông Phan Ngọc Gi.

Về con chung: Bà và ông Gi có hai con chung tên Phan Ngọc S sinh ngày 12/4/2001 (đã thành niên) và Phan Kim P sinh ngày 05/8/2009. Sau khi ly hôn bà yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Phan Kim P, không yêu cầu ông Gi cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Trong thời gian chung sống bà và ông Gi không có tài sản chung và không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa giải quyết.

* Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ bị đơn đến Tòa án để tự khai, hòa giải và tham gia phiên tòa nhưng ông Gi không đến Tòa án theo giấy triệu tập và cũng không có bất kỳ văn bản nào phản hồi yêu cầu khởi kiện của bà T nên Tòa án không thể thu thập được lời khai của ông Gi.

Tại phiên tòa, Nguyên đơn - bà Đỗ Thị Hồng Kim T có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa Bị đơn – ông Phan Ngọc Gi vắng mặt lần thứ hai không có lý do.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Quận 8 phát biểu quan điểm tại phiên tòa:

Việc chấp hành pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa: Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 về xét xử sơ thẩm vụ án.

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định pháp luật. Riêng bị đơn không chấp hành đúng quy định tại Điều 72 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

Về nội dung vụ án chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn theo quy định tại các Điều 56, 57, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Bà Đỗ Thị Hồng Kim T và ông Phan Ngọc Gi có đăng ký kết hôn, bà T yêu cầu ly hôn với ông Gi, xác định đây là vụ án hôn nhân và gia đình về “tranh chấp ly hôn”. Hiện nay, bị đơn là ông Phan Ngọc Gi đang cư trú tại Quận 8 (Theo kết quả xác minh của Công an Phường 6, Quận 8) nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 36, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

[2] Về thủ tục tố tụng:

Nguyên đơn bà Đỗ Thị Hồng Kim T có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành mở phiên tòa xét xử vắng mặt bà T.

Bị đơn ông Phan Ngọc Gi, Tòa án đã triệu tập tham gia phiên tòa hợp lệ lần thứ hai nhưng ông Gi vắng mặt không lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành mở phiên tòa xét xử vắng mặt ông Gi.

[3] Về yêu cầu của các đương sự:

- Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ theo Giấy chứng nhận kết hôn số 59, Quyển 01/2001 do Ủy ban nhân dân Phường E, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 04/5/2001, cùng lời khai của bà T về việc các đương sự tự nguyện kết hôn với nhau, nên đủ cơ sở xác định hôn nhân giữa bà T và ông Gi là hôn nhân hợp pháp.

Xét yêu cầu xin ly hôn của bà T: Trong quá trình chung sống, bà T và ông Gi xảy ra mâu thuẫn do vợ chồng không có sự cảm thông, chia sẻ với nhau; ông Gi không lo làm ăn, là người vô tâm không quan tâm, chăm sóc vợ con. Hai bên đã nhiều lần tìm cách giải quyết mâu thuẫn, tìm tiếng nói chung nhưng không đạt được kết quả mà tình trạng mâu thuẫn ngày càng trầm trọng hơn. Bà T và ông Gi đã sống ly thân đến nay được 03 năm. Bà T xác định vợ chồng không có khả năng hàn gắn đoàn tụ, không thể tiếp tục duy trì cuộc sống hôn nhân với ông Gi.

Hội đồng xét xử xét thấy, hôn nhân chỉ đạt được mục đích trên cơ sở yêu thương, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ các công việc trong gia đình, đồng thời vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau. Bà T và ông Gi đã không tôn trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Mặt khác, Tòa án đã triệu tập ông Gi đến Tòa để trình bày ý kiến tự khai, tổ chức phiên hòa giải để các bên có điều kiện hàn gắn đoàn tụ gia đình. Tuy nhiên, trong suốt quá trình giải quyết vụ án ông Gi không chấp hành theo giấy triệu tập của Tòa án mà không có lý do chính đáng. Điều này cho thấy ông Gi đã từ bỏ quyền lợi của mình, không muốn hòa giải hàn gắn đoàn tụ gia đình. Do đó, việc chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T là có căn cứ, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Về con chung: Bà T và ông Gi có hai con chung tên Phan Ngọc S sinh ngày 12/4/2001 (đã thành niên) và Phan Kim P sinh ngày 05/8/2009. Bà T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Phan Kim P do trẻ hiện đang sống cùng bà. Bà T không yêu cầu ông Gi cấp dưỡng nuôi con.

Hội đồng xét xử xét thấy, việc giao con chung cho ai trực tiếp nuôi dưỡng là căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con. Theo bản tự khai ngày 17/10/2019 thì trẻ P có nguyện vọng được sống với mẹ. Hơn nữa, trong suốt quá trình tố tụng ông Gi không có bất kỳ ý kiến nào phản hồi về yêu cầu nuôi con của bà T. Do đó, việc giao trẻ P cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng là có cơ sở, phù hợp với nguyện vọng của trẻ và quy định pháp luật tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Bà T không yêu cầu ông Gi cấp dưỡng nuôi con, nên không xem xét.

- Về tài sản chung và nợ chung: Bà T xác định bà và ông Gi không có tài sản chung và nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) bà T phải chịu theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 về án phí, lệ phí Tòa án).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 2 Điều 21, khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 36, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

- Khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57, khoản 2 Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 về án phí, lệ phí Tòa án Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đỗ Thị Hồng Kim T về việc xin ly hôn với ông Phan Ngọc Gi.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Đỗ Thị Hồng Kim T được ly hôn với ông Phan Ngọc Gi.

(Giấy chứng nhận kết hôn số 59, Quyển số 01/2001 do Ủy ban nhân dân Phường E, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 04/5/2001).

- Về con chung: Có hai con chung tên Phan Ngọc S sinh ngày 12/4/2001 (đã thành niên) và Phan Kim P sinh ngày 05/8/2009. Giao cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Phan Kim P. Ghi nhận việc bà T không yêu cầu ông Gi cấp dưỡng nuôi con.

Ông Phan Ngọc Gi có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được quyền ngăn cản.

Vì lợi ích của trẻ, theo yêu cầu của cha, mẹ, người thân thích, cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em hoặc Hội Liên hiệp phụ nữ, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Bà T xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) bà Đỗ Thị Hồng Kim T phải chịu, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí bà T đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0018684 ngày 04/12/2018 của Chi cục thi hành án dân sự Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Thi hành tại cơ quan Thi hành án Dân sự có thẩm quyền.

3. Về quyền kháng cáo: Bà Đỗ Thị Hồng Kim T, ông Phan Ngọc Gi được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 1302/2019/HNGĐ-ST ngày 27/11/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:1302/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 8 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về