Bản án 12/2019/HNGĐ-ST ngày 17/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÙ CÁT, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 12/2019/HNGĐ-ST NGÀY 17/05/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 17 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 13/2019/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 12 năm 2018 về tranh chấp: “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:14/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 4 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị A, SN: 1991

Trú tại: Thôn L, xã N, huyện P, tỉnh Bình Định

- Bị đơn: Anh Bùi Đức B, SN: 1984

Trú tại: Thôn M, xã N, huyện P, tỉnh Bình Định

(Chị A có mặt tại phiên tòa, anh B vắng mặt không lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong đơn khởi kiện xin ly hôn, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên toà hôm nay, nguyên đơn chị A trình bày:

Chị với anh B tự nguyện đi đến hôn nhân, đăng ký kết hôn tại UBND xã N, huyện P vào ngày 24/12/2009. Sau khi kết hôn vợ chồng hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn nhưng chị cố gắn chịu đựng. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh B không chăm lo cho gia đình, thường xuyên bài bạc và còn nhiều lần đánh đập chị. Đến tháng 8/2017 mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, chị không chịu đựng được cuộc sống như vậy nên chị đã dẫn con bỏ về nhà cha mẹ ruột của chị ở thôn L, xã N, huyện P, tỉnh Bình Định sinh sống, vợ chồng chị sống ly thân từ đó cho đến nay, không ai quan tâm đến ai.

Nay chị nhận thấy vợ chồng đã mâu thuẫn trầm trọng, vợ chồng không thể hàn gắn tình cảm để chung sống hạnh phúc, vợ chồng không sống chung đã lâu nhưng không có biện pháp hàn gắn tình cảm vợ chồng nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh B.

Về con chung: Chị với anh B có 01 người con chung tên là cháu C, sinh ngày: 22/12/2011. Hiện tại sức khỏe cháu C phát triển bình thường và đang ở với chị. Khi ly hôn chị xin nhận nuôi con. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung và nghĩa vụ tài sản chung chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

*Đối với bị đơn anh B mặc dù Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa không có lý do.

*Tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án:

- Chứng cứ nguyên đơn cung cấp: Bản sao trích lục kết hôn, bản sao giấy khai sinh cháu C, bản sao giấy chứng minh nhân dân chị A, bản photo sổ hộ khẩu.

- Bị đơn giao nộp cho tòa: Bị đơn vắng mặt nên không có chứng cứ giao nộp cho Tòa án.

- Chứng cứ Tòa án thu thập: Biên bản ghi lời khai chị A, biên bản xác minh tại Hội phụ nữ xã N và Công an xã N, biên bản xác minh tại gia đình anh B.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra làm rõ tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng:

[1.1]. Chị A khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh B. Đây là tranh chấp về Hôn nhân – Gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phù Cát quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự nên yêu cầu khởi kiện của chị A được Tòa án chấp nhận.

[1.2]. Bị đơn anh B đăng ký nhân khẩu thường trú và cư trú tại thôn M, xã N, huyện P, tỉnh Bình Định. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ đến lần thứ 2 thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và tống đạt hợp lệ đến lần thứ 2 quyết định đưa vụ án ra xét xử, giấy triệu tập tham dự phiên tòa nhưng trong các giai đoạn tố tụng này anh B đều vắng mặt không lý do. Do đó, căn cứ vào khoản 1 Điều 207 của Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án không tiến hành hòa giải vụ án được và căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục vắng mặt bị đơn anh B.

[2]. Về nội dung tranh chấp:

[2.1]. Chị A với anh B tự nguyện đi đến hôn nhân, đăng ký kết hôn vào ngày 24/12/2009 tại UBND xã N, huyện P nên quan hệ hôn nhân giữa chị A với anh B được pháp luật thừa nhận là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

[2.2]. Theo nguyên đơn chị A trình bày: Sau khi kết hôn vợ chồng hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn nhưng chị cố gắn chịu đựng. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh B không chăm lo cho gia đình, thường xuyên bài bạc và còn nhiều lần đánh đập chị. Đến tháng 8/2017 mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng nên chị đã dẫn con bỏ đi về nhà cha mẹ ruột của chị ở thôn L, xã N, huyện P, tỉnh Bình Định sinh sống, vợ chồng chị sống ly thân từ đó cho đến nay, không ai quan tâm đến ai. Nay chị nhận thấy vợ chồng đã mâu thuẫn trầm trọng, vợ chồng không thể hàn gắn tình cảm để chung sống hạnh phúc, vợ chồng không sống chung đã lâu nhưng không có biện pháp hàn gắn tình cảm vợ chồng nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh B.

[2.3]. Xét yêu cầu ly hôn của chị A, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Đã là vợ chồng, lẽ ra chị A với anh B phải có nghĩa vụ quan tâm, thương yêu, chăm sóc lẫn nhau; phải cùng có trách nhiệm với nhau trong cuộc sống hôn nhân. Tuy nhiên, anh B không chăm lo cho vun vén tình cảm vợ chồng, không chăm lo cho đời sống vợ con mà thường xuyên đi chơi bời, có lúc còn đánh đập chị A. Từ tháng 8/2017 mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng nên chị A đã dẫn con bỏ đi về nhà cha mẹ chị A ở thôn L, xã N, huyện P sinh sống, vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay, không ai quan tâm đến ai. Nay chị A nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, vợ chồng không thể hàn gắn tình cảm để chung sống hạnh phúc nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị ly hôn anh B. Đối với bị đơn anh B nhiều lần Tòa án triệu tập hợp lệ đến Tòa án tham gia giải quyết vụ án nhưng anh B đều vắng mặt. Tuy nhiên, qua kết quả xác minh tại Công an xã N, tại Hội liên hiệp phụ nữ xã N và gia đình của anh B thì được biết anh B hiện nay đăng ký nhân khẩu thường trú và sinh sống cùng với gia đình anh B ở thôn M, xã N, huyện P. Anh B làm nghề lái xe, thường xuyên đi về địa phương. Tại thời điểm Tòa án thụ lý vụ án thì anh B có mặt ở địa phương, có biết được việc chị A khởi kiện yêu cầu ly hôn anh, gia đình có nhận các văn bản tố tụng của Tòa giao và báo cho anh B biết nhưng anh B không đến Tòa. Việc anh B không chấp hành theo giấy triệu tập của Tòa án thể hiện ý thức chấp hành pháp luật kém của anh B nên anh B phải gánh chịu hậu quả pháp lý từ việc không chấp hành sự triệu tập của Tòa án. Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử có căn cứ để xác định quan hệ hôn nhân giữa chị A với anh B đã lâm vào tình trạng mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, việc chị A yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh B là có căn cứ, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình – 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị A.

[2.4]. Về con chung:

Chị A với anh B có 01 người con chung tên là C, sinh ngày: 22/12/2011. Hiện tại sức khỏe cháu C phát triển bình thường và đang ở với chị A. Khi ly hôn chị A xin nhận nuôi con. Nghĩa vụ cấp dưỡng chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Xét yêu cầu xin nuôi con của chị A, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Việc giao con chưa thành niên cho cha hoặc mẹ trực tiếp nuôi dưỡng phải xuất phát từ việc xem xét hoàn cảnh và điều kiện thực tế của người được trực tiếp nuôi con phải đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con để con được phát triển bình thường.Từ tháng 8/2017 mâu thuẫn vợ chồng gay gắt nên chị A đã dẫn con bỏ đi về nhà cha mẹ chị A ở thôn L, xã N, huyện P sinh sống nhưng anh B cũng không thường xuyên thăm hỏi, không cùng chị A chăm sóc con chung. Tại biên bản lấy lời khai của cháu C vào ngày 27/3/2019 thì nguyện vọng của cháu C muốn được ở với mẹ nếu Tòa án giải quyết cho cha mẹ cháu ly hôn. Do đó,Hội đồng xét xử giao cháu C, sinh ngày: 22/12/2011cho chị A trực tiếp nuôi dưỡng. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chị A không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[2.5]. Về tài sản chung và nghĩa vụ tài sản chung: Chị A không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3]. Về án phí DSST: Theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa XIV, chị A phải chịu án phí ly hôn.

[4]. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Cát phát biểu ý kiến về việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán và Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của các đương sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định của Luật tố tụng dân sự. Đồng thời, ý kiến của Kiểm sát viên về hướng giải quyết vụ án phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 207, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 186, các điều 264, 266, 273, 280 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng: Khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa XIV.

Tuyên xử:

[1]Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị A về việc yêu cầu ly hôn với anh B.

[1.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị A được ly hôn anh B.

[1.2] Về quan hệ con chung: Giao cho chị A được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cháu C, sinh ngày: 22/12/2011. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chị A không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Bên không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở. Vì lợi ích của con, khi cần thiết các bên có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con.

[1.3] Về tài sản chung và nghĩa vụ tài sản chung: Chị A không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[2] Án phí DSST:

+ Án phí ly hôn: Chị A phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn. Tuy nhiên, chị A đã nộp 300.000 đồng tạm ứng án phí tại biên lai thu số 0004118ngày 12/12/2018 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Phù Cát, nay được khấu trừ.

[3] Quyền kháng cáo: Án xử sơ thẩm công khai, đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt tại phiên tòa thời hạn 15 ngày được tính kể từ ngày nhận tống đạt hợp lệ hoặc niên yết hợp lệ bản bản.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2019/HNGĐ-ST ngày 17/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:12/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phù Cát - Bình Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về