Bản án 1214/2017/HNGĐ-ST ngày 11/09/2017 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1214/2017/HNGĐ-ST NGÀY 11/09/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 11 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử công khai vụ án hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số 197/2016/TLST-HNGĐ ngày 18/5/2016 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về việc “Ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 712/2017/QĐST-HNGĐ ngày 21/8/2017; Giữa các đương sự:

- Nguyên đơn:

Ông Trần Nhật M, sinh năm 1973 (Có đơn xin vắng mặt)

Địa chỉ: Số A đường B, Phường C, quận D, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị đơn:

Bà Lê Ngọc T (Le T Ngoc), sinh năm 1972 (Vắng mặt) Quốc tịch: Canada

Địa chỉ: Canada.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và bản tự khai, nguyên đơn ông Trần Nhật M trình bày:

Ông và bà Lê Ngọc T quen biết và tự nguyện kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số E quyển số G ngày 12/3/2012 do Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 05/3/2012. Sau khi kết hôn ông và bà T chỉ sống chung trong một thời gian ngắn, sau đó vì bận công việc nên bà T đã trở về nước, hai người chỉ liên lạc với nhau qua điện thoại. Từ cảnh sống mỗi người một nơi mâu thuẫn dần phát sinh và ngày càng trầm trọng. Từ năm 2014 đến nay ông không còn gặp gỡ hay liên lạc gì với bà T, giữa vợ chồng không còn sự gắn kết sẻ chia trong cuộc sống. Do tình cảm vợ chồng đã không còn, cuộc sống hôn nhân không thể tiếp tục duy trì nên ông khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà Lê Ngọc T.

Về con chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Đối với bị đơn là bà Lê Ngọc T: Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án, thông báo ngày giờ và địa điểm mở phiên họp hòa giải, phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án thông qua thủ tục ủy thác tư pháp đến Cơ quan có thẩm quyền của Canada, theo địa chỉ của bị đơn do nguyên đơn cung cấp. Đồng thời, yêu cầu bà Lê Ngọc T có văn bản gửi tòa án trình bày ý kiến về việc ông Trần Nhật M khởi kiện yêu cầu ly hôn (theo công văn ủy thác tư pháp số 846/TTTPHNGĐ-TGĐVNCTN ngày 12/8/2016). Bộ Tư pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có công văn đề nghị Bộ Ngoại giao thực hiện các công việc cần thiết để thực hiện ủy thác tư pháp theo quy định. Đến ngày mở phiên tòa như đã định tại thông báo gửi đương sự, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh không nhận được văn bản thông báo về kết quả tống đạt cũng như lời khai, tài liệu, chứng cứ của đương sự ở nước ngoài và bị đơn vắng mặt, không có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt; Tòa án đã hoãn phiên tòa theo quy định tại khoản 4 Điều 477 và có công văn đề nghị Bộ Tư pháp thông báo về việc thực hiện tống đạt văn bản tố tụng của Tòa án cho bà Lê Ngọc T ở nước ngoài (Công văn số 444/TATP- TGĐVNCTN ngày 26/5/2017). Để đảm bảo việc xét xử theo đúng hạn luật định và bảo đảm quyền lợi của đương sự khác, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân thủ pháp luật tố tụng dân sự trong việc giải quyết vụ án theo trình tự sơ thẩm có nêu: Thẩm phán, các thành viên Hội đồng xét xử sơ thẩm, các đương sự trong vụ án đã thực hiện đầy đủ quy định pháp luật về tố tụng dân sự; quan hệ tranh chấp của vụ án đã được xác định đúng, chứng cứ được thu thập hợp lệ; vụ án có yếu tố nước ngoài Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền; thủ tục ủy thác tư pháp đã được tiến hành hợp lệ; bị đơn không có ý kiến phản hồi nên vụ án được tiếp tục giải quyết theo quy định. Đề xuất về đường lối giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vì cho đến thời điểm hiện tại thời gian xa cách giữa hai người đã khá lâu, tình cảm vợ chồng không còn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, qua thẩm tra chứng cứ công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử sơ thẩm nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Căn cứ đơn khởi kiện của nguyên đơn, căn cứ giấy chứng nhận đăng ký kết hôn cùng lời trình bày của đương sự tại bản khai có cơ sở để xác định đây là vụ án tranh chấp về ly hôn. Bị đơn trong vụ án là bà Lê Ngọc T có quốc tịch Canada, hiện đang định cư tại Canada. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, khoản 1 Điều 37 Bộ luật Tố tụng dân sự, thẩm quyền giải quyết vụ án thuộc về Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Trước khi mở phiên tòa xét xử sơ thẩm, nguyên đơn có đơn đề nghị tòa án xét xử vắng mặt; bị đơn bà Lê Ngọc T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng yêu cầu cung cấp bản khai, thông báo ngày, giờ, địa điểm xét xử nhưng đến hạn định sau cùng Tòa án vẫn không nhận được phản hồi của bà Lê Ngọc T. Xét, yêu cầu của nguyên đơn đã được thể hiện rõ trong bản khai, sự vắng mặt của các bên đương sự không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Căn cứ quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử sơ thẩm quyết định xét xử vắng mặt đối với nguyên đơn, bị đơn.

[2] Về nội dung:

Căn cứ bản tự khai của nguyên đơn cùng giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số E quyển số G ngày 12/3/2012 do Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 05/3/2012, có cơ sở để xác định quan hệ về hôn nhân giữa ông Trần Nhật M với bà Lê Ngọc T được xác lập trên cơ sở tự nguyện và được pháp luật thừa nhận.

Theo trình bày của ông Trần Nhật M thì sau khi kết hôn chỉ một tháng, bà Lê Ngọc T trở về Canada sinh sống, làm việc. Thời gian sống chung không dài nhưng giữa hai người phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, lối sống không thể tự giải quyết. Theo thời gian, tình cảm vợ chồng dần nhạt phai và thiếu sự tôn trọng lẫn nhau. Nhận thấy, thời gian xa cách đã lâu, mục đích hôn nhân không đạt nên ông M khởi kiện yêu cầu được chấm dứt quan hệ hôn nhân với bà Lê Ngọc T để ổn định cuộc sống.

Đối với bị đơn bà Lê Ngọc T hiện đang định cư tại Canada, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành thủ tục ủy thác tư pháp theo quy định yêu cầu bà Lê Ngọc T có ý kiến bằng văn bản gửi tòa án về trường hợp xin ly hôn của nguyên đơn nhưng bà Lê Ngọc T không có ý kiến phản hồi.

Xét thấy, ở giai đoạn hiện tại cuộc sống hôn nhân giữa ông Trần Nhật M với bà Lê Ngọc T đã có biểu hiện rõ nét về sự đổ vỡ; trở về Canada từ khoảng giữa năm 2014 cho tới nay hai người không còn trao đổi, liên hệ gì với nhau qua thư từ, điện thoại; điều này cho thấy sự yêu thương gắn kết và tôn trọng lẫn nhau giữa người vợ và người chồng không còn và khó có khả năng hàn gắn đoàn tụ để xây dựng gia đình hạnh phúc. Nay, xuất phát từ yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn Hội đồng xét xử sơ thẩm xét thấy có cơ sở để giải quyết cho ông Trần Nhật M được chấm dứt quan hệ hôn nhân với bà Lê Ngọc T; đồng thời ông M phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về lời khai của mình khi tòa án giải quyết vụ án này.

Về con chung: Không có, không yêu cầu giải quyết

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

Án phí dân sự sơ thẩm: Ông Trần Nhật M phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, khoản 1 Điều 37, Điều 147, Điều 227, Điều 228, khoản 4 Điều 477, khoản 2 Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Áp dụng khoản 1 Điều 56, Điều 121, Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình;

- Áp dụng Pháp lệnh về án phí, lệ phí Tòa án;

- Áp dụng Luật Thi hành án dân sự.

I. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn ông Trần Nhật M:

1.  Về quan hệ hôn nhân:

Ông Trần Nhật M được ly hôn với bà Lê Ngọc T.

Giấy chứng nhận kết hôn số E quyển số G ngày 12/3/2012 do Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 05/3/2012 không còn giá trị pháp lý.

2. Về con chung: Không có.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không có. II. Án phí dân sự sơ thẩm:

Ông Trần Nhật M phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 03768 ngày 11/5/2016 của Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh, số tiền đã nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng, đương sự đã thi hành xong án phí sơ thẩm.

III. Quyền kháng cáo:

Nguyên đơn có quyền kháng cáo để được xem xét lại vụ án theo trình tự phúc thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết; Tòa án xét xử vắng mặt đối với bị đơn cư trú ở nước ngoài theo quy định tại điểm c Khoản 5 Điều 477 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên thời hạn kháng cáo là 12 (mười hai) tháng kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được áp dụng theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

250
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 1214/2017/HNGĐ-ST ngày 11/09/2017 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:1214/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về