Bản án 1213/2017/HNGĐ-ST ngày 11/09/2017 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1213/2017/HNGĐ-ST NGÀY 11/09/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 11 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử công khai vụ án hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số 318/2016/TLST-HNGĐ ngày 18/7/2016 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về việc “Ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 724/2017/QĐST-HNGĐ ngày 21/8/2017; Giữa các đương sự:

- Nguyên đơn:

Ông P, sinh năm 1977 (Có đơn xin vắng mặt)

Địa chỉ: Số A đường B, phường C, quận D, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị đơn:

Bà M, sinh năm 1978 (Vắng mặt) Quốc tịch: Canada.

Địa chỉ: Canada.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và bản tự khai, nguyên đơn ông P trình bày:

Ông và bà M quen biết và tự nguyện kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số E Quyển số D ngày 23/02/2009 do Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 20/02/2009. Sau khi kết hôn, ông ở Việt Nam còn bà M về sinh sống tại Canada. Trong cuộc sống chung, do không thường xuyên sống bên nhau nên giữa vợ chồng ông có phát sinh những xích mích, bất đồng không thể tự giải quyết. Khoảng năm 2013 thì sự việc trở nên trầm trọng và cả hai không còn liên lạc gì với nhau cho đến nay. Do thời gian chung sống ngắn ngủi, vợ chồng không có sự đồng cảm, thấu hiểu nên cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt ông khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà M.

Về con chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

Đối với bị đơn là bà M: Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án, thông báo ngày giờ và địa điểm mở phiên họp hòa giải, phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án thông qua thủ tục ủy thác tư pháp đến Cơ quan có thẩm quyền của Canada, theo địa chỉ của bị đơn do nguyên đơn cung cấp. Đồng thời, yêu cầu bà M có văn bản gửi tòa án trình bày ý kiến về việc ông P khởi kiện yêu cầu ly hôn (theo công văn ủy thác tư pháp số 1059/TTTPHNGĐ-TGĐVNCTN ngày 21/9/2016). Bộ Tư pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có công văn đề nghị Bộ Ngoại giao thực hiện các công việc cần thiết để thực hiện ủy thác tư pháp theo quy định. Đến ngày mở phiên tòa như đã định tại thông báo gửi đương sự, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh không nhận được văn bản thông báo về kết quả tống đạt cũng như lời khai, tài liệu, chứng cứ của đương sự ở nước ngoài và bị đơn vắng mặt, không có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt; Tòa án đã hoãn phiên tòa theo quy định tại khoản 4 Điều 477 và có công văn đề nghị Bộ Tư pháp thông báo về việc thực hiện tống đạt văn bản tố tụng của Tòa án cho bà M ở nước ngoài (Công văn số 408/TATP-TGĐVNCTN ngày 19/5/2017). Để đảm bảo việc xét xử theo đúng hạn luật định và bảo đảm quyền lợi của đương sự khác, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân thủ pháp luật tố tụng dân sự trong việc giải quyết vụ án theo trình tự sơ thẩm có nêu: Thẩm phán, các thành viên Hội đồng xét xử sơ thẩm, các đương sự trong vụ án đã thực hiện đầy đủ quy định pháp luật về tố tụng dân sự; quan hệ tranh chấp của vụ án đã được xác định đúng, chứng cứ được thu thập hợp lệ; vụ án có yếu tố nước ngoài Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền; thủ tục ủy thác tư pháp đã được tiến hành hợp lệ. Đề xuất về đường lối giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có ý kiến: trong cuộc sống chung giữa nguyên và bị đơn đã nảy sinh những bất đồng về quan điểm, lối sống dẫn hôn nhân không hạnh phúc, từ năm 2013 cho đến nay hai người mất hẳn liên lạc, không còn quan tâm đến cuộc sống của nhau, như vậy tình cảm vợ chồng không còn; đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, qua thẩm tra chứng cứ công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử sơ thẩm nhận định:

 [1] Về thủ tục tố tụng:

Căn cứ đơn khởi kiện của nguyên đơn, căn cứ giấy chứng nhận đăng ký kết hôn cùng lời trình bày của đương sự tại bản khai có cơ sở để xác định đây là vụ án tranh chấp về ly hôn. Bị đơn trong vụ án là bà M có quốc tịch Canada, hiện đang định cư tại Canada. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, khoản 1 Điều 37 Bộ luật Tố tụng dân sự, thẩm quyền giải quyết vụ án thuộc về Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Trước khi mở phiên tòa xét xử sơ thẩm, nguyên đơn có đơn đề nghị tòa án xét xử vắng mặt; bị đơn bà M đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng yêu cầu cung cấp bản khai, thông báo ngày, giờ, địa điểm xét xử nhưng đến hạn định sau cùng Tòa án vẫn không nhận được phản hồi của bà M. Xét, yêu cầu của nguyên đơn đã được thể hiện rõ trong bản khai, sự vắng mặt của các bên đương sự không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Căn cứ quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử sơ thẩm quyết định xét xử vắng mặt đối với nguyên đơn, bị đơn.

 [2] Về nội dung:

Căn cứ bản tự khai của nguyên đơn và giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số E Quyển số D ngày 23/02/2009 do Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 20/02/2009, có cơ sở để xác định quan hệ hôn nhân giữa ông P với bà M được xác lập trên cơ sở tự nguyện và được pháp luật thừa nhận.

Theo trình bày của ông P thì sau khi kết hôn bà M trở về sinh sống, làm việc tại Canada và rất ít khi quay lại Việt Nam. Do cách trở về địa lý vợ chồng không có điều kiện sống gần nhau để cùng chia sẻ nên dần phát sinh mâu thuẫn và ngày càng trầm trọng; đã bốn năm nay hai người không còn trao đổi hay liên hệ gì với nhau qua thư từ, điện thoại. Nay xác định tình cảm vợ chồng không còn, các bên không bị ràng buộc bởi con chung và tài sản; ông khởi kiện yêu cầu được ly hôn với bà M để ổn định cuộc sống riêng.

Đối với bị đơn bà M hiện đang định cư tại Canada, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành thủ tục ủy thác tư pháp theo quy định yêu cầu bà M có ý kiến bằng văn bản gửi tòa án về trường hợp xin ly hôn của nguyên đơn nhưng bà M không có ý kiến phản hồi.

Xét thấy, mặc dù ông P và bà M quen biết rồi tiến tới hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, nhưng theo lời khai của nguyên đơn thì thực tế sau khi kết hôn hai người không ở chung mà bà M trở về Canada sinh sống rồi theo năm tháng cả hai mất hẳn liên lạc với nhau từ năm 2013 cho đến nay; điều nay thể hiện giữa ông P với bà M chưa có sự gắn kết sâu đậm về tình cảm vợ chồng; chưa có sự đồng cảm với nhau về trách nhiệm gia đình; duy trì hôn nhân cũng không đem lại hạnh phúc cho họ. Vì vậy, xuất phát từ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Hội đồng xét xử sơ thẩm xét thấy: Có cơ sở để giải quyết cho ông P được chấm dứt quan hệ hôn nhân với bà M như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa; đồng thời ông P phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về lời khai của mình khi tòa án giải quyết vụ án này.

Về con chung: Không có, không yêu cầu giải quyết

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

Án phí dân sự sơ thẩm: Ông P phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, khoản 1 Điều 37, Điều 147, Điều 227, Điều 228, khoản 4 Điều 477, khoản 2 Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Áp dụng khoản 1 Điều 56, Điều 121, Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình;

- Áp dụng Pháp lệnh về án phí, lệ phí Tòa án;

- Áp dụng Luật Thi hành án dân sự.

I. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn ông P:

1. Về quan hệ hôn nhân:

Ông P được ly hôn với bà M.

Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số E Quyển số D ngày 23/02/2009 do Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 20/02/2009 không còn giá trị pháp lý.

2. Về con chung: Không có.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không có. II. Án phí dân sự sơ thẩm:

Ông P phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 03005 ngày 28/6/2016 của Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh, số tiền đã nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng, đương sự đã thi hành xong án phí sơ thẩm.

III. Quyền kháng cáo:

Nguyên đơn có quyền kháng cáo để được xem xét lại vụ án theo trình tự phúc thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết; Tòa án xét xử vắng mặt đối với bị đơn ở nước ngoài theo quy định tại điểm c Khoản 5 Điều 477 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên thời hạn kháng cáo là 12 tháng kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được áp dụng theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

291
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 1213/2017/HNGĐ-ST ngày 11/09/2017 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:1213/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về