Bản án 11/2020/HNGĐ-ST ngày 05/03/2020 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN TP TN, TỈNH THÁI NGUYÊN

 BẢN ÁN 11/2020/HNGĐ-ST NGÀY 05/03/2020 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 05/3/2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 983/2019/TLST- HNGĐ ngày 16 tháng 12 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/ 2020/QĐXX - ST ngày 17/02/2020 giữa các đương sự:

*Nguyên Đơn: Chị Phạm Thị Hương G, sinh năm 1981;

Địa chỉ: Tổ X, phường H, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên.

(Có mặt tại phiên tòa)

*B Đơn: Anh Nguyễn N T; sinh năm 1977;

ĐKHKTT: số 98A/11/26 đường P, phường B, quận T, thành phố Hồ Chí Minh.

Nơi ở: Số nhà 92, đường S, ấp A, xã T, huyện C, thành phố Hồ Chí Minh.

(Có đơn xin xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Phạm Thị Hương G trình bày:

Chị và anh Nguyễn N T kết hôn năm 2003 có đăng ký kết hôn tại UBND phường D, quận P, thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc thời gian đầu, sau đó phát sinh mâu thuẫn dẫn đến việc thường xuyên xảy ra cãi vã, xung đột, từ tháng 3/2019 đến nay anh T đã chuyển về thành phố Hồ Chí Minh sinh sống, vợ chồng sống ly thân nhau không ai quan tâm đến ai. Tại phiên tòa ngày hôm nay, chị G xác định không còn tình cảm vợ chồng, mục đích hôn nhân không đạt được nên xin được ly hôn với anh T để giải phóng cho nhau.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Phạm Thanh N, sinh ngày 31/3/2004 và Nguyễn Phạm Thanh N1, sinh ngày 11/7/2006.

Khi ly hôn, chị yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung đến khi con đủ 18 tuổi. Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con chung.

3/ Về tài sản chung, nợ chung: Xin tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai, anh Nguyễn Ngọc T trình bày: Anh và chị Phạm Thị Hương G kết hôn năm 2003 có đăng ký kết hôn tại UBND phường D, quận P, thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc thời gian đầu, sau đó phát sinh mâu thuẫn dẫn đến việc thường xuyên xảy ra cãi vã, xung đột, từ tháng 3/2019 đến nay anh T đã chuyển về thành phố Hồ Chí Minh sinh sống, vợ chồng sống ly thân nhau không ai quan tâm đến ai. Nay chị G xin ly hôn anh cũng nhất trí ly hôn để giải phóng cho nhau.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Phạm Thanh N, sinh ngày 31/3/2004 và Nguyễn Phạm Thanh N1, sinh ngày 11/7/2006.

Khi ly hôn, anh T nhất trí để chị G được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung đến khi con chung đủ 18 tuổi.

3/ Về tài sản chung, nợ chung: Xin tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án đã tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về toàn bộ nội dung của vụ án nhưng anh T xin vắng mặt không tham gia hòa giải, vì vậy Tòa án phải đưa vụ kiện ra xét xử tại phiên tòa công khai ngày hôm nay.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa.

Hi đồng xét xử nhận định:

1. Về tố tụng:

- Về thẩm quyền: Đây là vụ kiện ly hôn, bị đơn là anh Nguyễn Ngọc T hiện nay đang cư trú tại số nhà 92, đường S, ấp A, xã T, huyện C, thành phố Hồ Chí Minh nhưng anh và chị G đã có đơn xin lựa chọn Tòa án nơi nguyên đơn đang cư trú giải quyết việc ly hôn nên theo quy định tại Điều 28, 35, điểm b, khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên.

Anh Nguyễn Ngọc T vắng mặt tại phiên tòa lần thứ nhất nhưng đã có đơn xin xét xử vắng mặt, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt anh T theo quy định tại khoản 1 Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

2. Về nội dung:

Chị Phạm Thị Hương G và anh Nguyễn Ngọc T kết hôn năm 2003 có đăng ký kết hôn tại UBND phường D, quận P, thành phố Hồ Chí Minh nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp.

Về nguyên nhân dẫn đến việc ly hôn: Các đương sự đều xác định mâu thuẫn vợ chồng phát sinh do bất đồng quan điểm sống nên thường xuyên xảy ra việc xung đột, cãi vã nhau, từ tháng 3/2019 đến nay đã sống ly thân nhau không ai quan tâm đến ai. chị G, anh T đều có nguyện vọng xin được ly hôn để giải phóng cho nhau.

HĐXX thấy rằng: Mâu thuẫn của chị G và anh T đã trầm trọng, quan hệ hôn nhân giữa các đương sự đã thực sự tan vỡ, hai vợ chồng đã sống ly thân nhau từ tháng 3 năm 2019 đến nay, việc duy trì quan hệ hôn nhân cũng không mang lại hạnh phúc cho cả hai bên, mục đích hôn nhân không đạt được, vì vậy cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị G, cho chị Phạm Thị Hương G được ly hôn anh Nguyễn Ngọc T là phù hợp với thực tế và phù hợp với quy định tại Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Về con chung:

Vợ chồng Vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Phạm Thanh N, sinh ngày 31/3/2004 và Nguyễn Phạm Thanh N1, sinh ngày 11/7/2006, khi ly hôn G yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung đến khi con đủ 18 tuổi, anh T cũng nhất trí để chị G được nuôi dưỡng cả hai con chung. Nguyện vọng của con chung muốn được ở với mẹ.

Theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình quy định:

“1. Sau khi ly hôn, cha, mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; Trường hợp không thoả thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”.

Hội đồng xét xử xét thấy: Hiện nay chị G có đủ điều kiện để nuôi con và thực tế đang là người trực tiếp nuôi dưỡng cả 02 con chung. Do vậy để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chung. Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu nuôi con chung của chị G , giao cho chị G trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cả 02 con chung đến khi con đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác.

Anh T có quyền đi lại thăm con chung.

Về cấp dưỡng nuôi con: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết do chị G không có yêu cầu.

Về tài sản chung, nợ chung: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết do các đương sự không có yêu cầu. Nếu sau khi ly hôn, hai bên có tranh chấp thì được giải quyết bằng một vụ án khác.

Về án phí: Căn cứ Điều 146, 147 Bộ luật tố tụng dân sự, Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội chị G phải nộp 300.000đ án phí LHST vào Ngân sách nhà nước được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 28, 35, điểm b khoản 1 Điều 39, Điều 146, 147, Điều 227, 228, Điều 483 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, các Điều 51,56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; Các Điều 2, 6 ,7, 9, 30 Luật thi hành án dân sự; Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị Hương G.

- Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Phạm Thị Hương G được ly hôn anh Nguyễn Ngọc T.

- Về con chung: Giao cho chị G trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục 02 con chung là Nguyễn Phạm Thanh N, sinh ngày 31/3/2004 và Nguyễn Phạm Thanh Nl, sinh ngày 11/7/2006 đến khi con đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác.

Anh T có quyền đi lại thăm con chung.

+ Về cấp dưỡng nuôi con: không xem xét giải quyết do các đương sự không có yêu cầu.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét giải quyết do các đương sự không có yêu cầu.

2. Về án phí: Chị G phải nộp 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm vào ngân sách nhà nước được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0002500 ngày 16/12/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện yêu cầu thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự: thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

2. Về quyền kháng cáo: Báo cho chị G có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

145
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2020/HNGĐ-ST ngày 05/03/2020 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:11/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về