Bản án 11/2019/HNGĐ-ST ngày 22/04/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 11/2019/HNGĐ-ST NGÀY 22/04/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 22 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 628/2018/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 12 năm 2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 132/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 4 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 185/2019/QĐST-HNGĐ ngày 17 tháng 4 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Phương M; nơi cư trú: Số 11/6/25/229 H, phường H, Quận L, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Quang H; nơi cư trú: Số 11/6/25/229 H, phường H, Quận L, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn chị Nguyễn Thị Phương M trình bày: Chị và anh H xây dựng gia đình với nhau trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu nhau, có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 43 quyển số 01 ngày 25/7/2014 tại Ủy ban nhân dân phường M, Quận N, thành phố Hải Phòng. Đến nay, vợ chồng đã có 01 con chung.

Quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng về quan điểm sống, tính cách không phù hợp dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã. Mâu thuẫn của vợ chồng đã được gia đình hai bên hòa giải nhưng không có kết quả. Thực tế đến nay, hai bên đã sống ly thân không còn quan tâm đến nhau nữa. Nay chị M xác định tình cảm giữa chị và anh H không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng, cuộc sống chung không có hạnh phúc nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh H.

- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Nguyễn Ngọc Tú A, sinh ngày 25/10/201X. Ly hôn, chị xin nhận nuôi dưỡng con chung đến khi con đủ 18 tuổi. Việc cấp dưỡng nuôi con chung, hai bên tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Nguyễn Quang H trình bày:

Anh thống nhất với lời khai của chị M về điều kiện kết hôn và thừa nhận quá trình chung sống, vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn do cuộc sống kinh tế bấp bênh và gia đình hai bên không cùng quan điểm sống và trình độ học thức. Mặt khác anh cũng có nhiều việc sai lầm với chị M. Nay chị M có đơn xin ly hôn với anh, anh xét thấy vẫn còn tình cảm với chị M nên không đồng ý ly hôn và đề nghị Tòa án hòa giải để vợ chồng về đoàn tụ cùng nuôi dạy con cái.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Nguyễn Ngọc Tú A, sinh ngày 25/10/201X. Trong trường hợp nếu buộc phải ly hôn, chị M xin nhận nuôi dưỡng con chung đến khi con đủ 18 tuổi, anh cũng đồng ý. Việc cấp dưỡng nuôi con chung, hai bên tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng phát biểu quan điểm:

Về tố tụng: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến thời điểm này thấy rằng, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã chấp hành đầy đủ quy định của pháp luật. Bị đơn đã không chấp hành đầy đủ quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Đề nghị HĐXX căn cứ vào các điều 8, 9, 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn:

- Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị Phương M được ly hôn anh Nguyễn Quang H.

- Về con chung: Giao con chung Nguyễn Ngọc Tú A, sinh ngày 25/10/201X cho chị Nguyễn Thị Phương M trực tiếp nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng nuôi con chung, hai bên không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề nghị xem xét.

- Về tài sản chung: Hai bên không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề nghị xem xét.

- Về án phí: Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc chị M phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Nguyễn Quang H vắng mặt tại phiên tòa không có lý do mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ lần thứ hai. Theo quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh H.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Theo đơn khởi kiện xin ly hôn và biên bản làm việc ngày 04/10/2018 thể hiện anh H hiện tạm trú tại số 11/6/25/229 H, phường H, Quận L, thành phố Hải Phòng. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.

- Về quan hệ hôn nhân:

[3] Việc kết hôn giữa chị Nguyễn Thị Phương M và anh Nguyễn Quang H tuân thủ đúng quy định tại các điều 8, 9 Luật Hôn nhân và gia đình nên là hôn nhân hợp pháp.

[4] Trong quá trình giải quyết vụ án, các bên đương sự đều xác nhận cuộc sống vợ chồng có nảy sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng về quan điểm sống, tính cách không phù hợp. Lời khai của các đương sự phù hợp với thực tế qua xác minh tại chính quyền địa phương về điều kiện kết hôn, quá trình chung sống cũng như tình trạng hiện tại của vợ chồng cùng với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét công khai tại phiên tòa. Nay chị M xác định mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được và đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn, anh H không đồng ý ly hôn nên đề nghị

Tòa án hòa giải để vợ chồng về đoàn tụ. Hội đồng xét xử thấy rằng việc yêu cầu được ly hôn của chị M và yêu cầu Tòa án giải quyết để vợ chồng được đoàn tụ của anh H đều cần xem xét, tuy nhiên cũng xét vợ chồng phải có nghĩa vụ thương yêu chăm sóc lẫn nhau, cùng nhau xây dựng gia đình no ấm hạnh phúc và tình cảm đó phải được xuất phát từ cả hai bên. Nay chị M xin ly hôn anh H vì chị cho rằng tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Trong quá trình giải quyết vụ án, anh H có ý kiến không đồng ý ly hôn nhưng chưa tìm được biện pháp thích hợp để khắc phục mâu thuẫn vợ chồng. Tòa án đã mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và phiên tòa 02 lần nhưng anh H đều vắng mặt không có lý do mặc dù đã được tống đạt hợp lệ chứng tỏ anh H chưa thực sự tha thiết níu kéo hôn nhân với chị M. Nay xét mâu thuẫn vợ chồng anh H và chị M đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được vì vậy việc xin ly hôn của chị M với anh H là phù hợp với quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát và phù hợp với tình trạng thực tế của vợ chồng, phù hợp với quy định các điều 51, 56 Luật Hôn nhân gia đình nên cần chấp nhận.

- Về con chung:

[5] Về việc chăm sóc nuôi dưỡng con chung: Hai bên có 01 con chung là Nguyễn Ngọc Tú A, sinh ngày 25/10/201X. Sau khi ly hôn, chị M xin nhận nuôi con chung đến khi con đủ 18 tuổi, anh H cũng đồng ý để chị M nuôi dưỡng con chung. Vì vậy giao con chung Nguyễn Ngọc Tú A cho chị M nuôi dưỡng chăm sóc là phù hợp với điều kiện thực tế và phù hợp với quy định tại các điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[6] Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị M không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra vấn đề giải quyết.

[7] Về tài sản chung: Hai bên không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xét.

[8] Về án phí: Chị Nguyễn Thị Phương M phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 8, 9, 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, tuyên xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Phương M và anh Nguyễn Quang H.

- Về con chung: Giao con chung Nguyễn Ngọc Tú A, sinh ngày 25/10/201X cho chị Nguyễn Thị Phương M trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

- Về án phí: Chị Nguyễn Thị Phương M phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí  ly hôn sơ thẩm. Số tiền trên chị M đã nộp đủ tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí số 0012936 ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.

- Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị Phương M có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Nguyễn Quang H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2019/HNGĐ-ST ngày 22/04/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:11/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về