Bản án 11/2018/HS-ST ngày 22/03/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG PA, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 11/2018/HS-ST NGÀY 22/03/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 3 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 43/2017/TLST-HS, ngày 29 tháng 12 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2018/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 3 năm 2018, đối với các bị cáo:

Ksor Hương, sinh năm 1997 tại huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai.

Nơi cư trú: Buôn Chai, xã Chư Đrăng, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 3/12; dân tộc: Jrai; con ông Rơ Ô Siơn, sinh năm 1982 và bà Ksor H’Mrí, sinh năm 1976; Tiền án: Có 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” cụ thể: Ngày 08/12/2015 bị Tòa án nhân dân huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai xử phạt 07 tháng tù. Đến ngày 17/02/2016 chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương sinh sống; Tiền sự: không; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 23/9/2017 cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

Nay Xương, sinh năm 1991 tại huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai.

Nơi cư trú: Tập đoàn 3, xã Chư Gu, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Jrai; con ông Ksor Sal, sinh năm 1960 và bà Nay H’Ưng, sinh năm 1962; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 06/9/2017 cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại:

1. Ông Kpă Bưi, sinh năm 1967; Trú tại: Buôn Dù, xã Ia Mlăh, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt lần thứ hai không có lý do.

2. Chị Đặng Thị Lan Anh, sinh năm 1998; Trú tại: Tổ dân phố 12, thị trấn Phú Túc, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Ksor Sal, sinh năm 1960; Trú tại: Tập đoàn 3, buôn ama Rok, xã Chư Gu, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

2. Anh Nay Cheo, sinh năm 1986; Trú tại: Buôn Dù, xã Ia Mlăh, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt lần thứ hai không có lý do.

3. Chị Đặng Thị Mai, sinh năm 1989; Trú tại: Thôn Cầu Đôi, xã Chư Rcăm, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt lần thứ hai không có lý do.

- Người phiên dịch tiếng Jrai: Anh Kpă Jơh, sinh năm 1998; Trú tại: Tổ dân phố 07, thị trấn Phú Túc, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ 00 ngày 04/5/2016, Nay Xương điều khiển xe môtô chở Ksor Hương đến buôn Proong, xã IaMlah để chơi. Khi đi đến đoạn đường liên xã thuộc buôn Dù, xã IaMlah, Nay Xương phát hiện ở trước cửa nhà sàn của ông Kpă Bưi có dựng một chiếc xe môtô không có người trông coi. Nay Xương nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe trên. Xương dừng xe, giao xe cho Hương điều khiển và nói Ksor Hương đứng ngoài đợi Xương và canh chừng người, để Xương vào nhà sàn lấy xe ra thì Hương đồng ý. Sau đó, Xương vào lấy xe và dắt ra đường nơi Hương đang đứng chờ, do trên xe có cắm sẵn chìa khóa nên Xương mở khóa, nổ máy và cùng với Hương, mỗi người một xe chạy về nhà của Xương. Khi về đến nhà Xương thì Xương lên nhà ngủ, còn Hương dùng tuốc-nơ-vít và cờ lê của nhà Xương tháo bửng và biển số của chiếc xe đã trộm cắp được ra để tránh bị phát hiện, sau khi tháo xong thì Hương cũng ngủ lại tại nhà Xương. Đến sáng ngày 05/5/2016, Xương điều khiển chiếc xe mô tô mà Xương và Hương đã trộm cắp được, chở Hương sang nhà của Hương ở buôn Chai, xã ChưĐrăng chơi. Khi đi Hương cầm theo bửng và biển số xe mà Hương đã tháo, lúc đi ngang qua cầu gỗ bắc qua sông Ba đoạn Tập Đoàn 3, xã Chư Gu thì Hương ném bửng và biển số xe xuống sông.

Nay Xương ở chơi tại nhà của Hương đến chiều cùng ngày thì điều khiển chiếc xe trên về, còn Hương ở lại nhà. Sau đó, Nay Xương đã sử dụng chiếc xe mô tô trên để làm phương tiện đi lại.

Căn cứ kết luận định giá tài sản số 53/KL – HĐĐG, ngày 18/9/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS huyện Krông Pa xác định xe mô-tô BKS: 81N1-099.80 có giá trị là: 17.000.000 đồng.

Tại Cơ quan điều tra, Nay Xương và Ksor Hương khai báo ngoài hành vi phạm tội nêu trên, vào ngày 12/4/2016, Nay Xương và Ksor Hương còn thực hiện hành vi lén lút trộm cắp một xe mô tô của chị Đặng Thị Lan Anh tại khu vực cổng chợ Phú Túc. Nội dung diễn biến cụ thể như sau: Khoảng 12 giờ 00 ngày 12/4/2016, Nay Xương rủ Ksor Hương đến quán Hùng bò ở thị trấn Phú Túc để nhậu. Xương và Hương nhậu đến khoảng 13 giờ 30 cùng ngày thì nghỉ. Sau đó, Xương rủ Hương đi ra chợ Phú Túc trộm xe thì Hương đồng ý. Hương điều khiển xe môtô chở Xương ngồi sau đi ra chợ Phú Túc. Khi đến cổng chính của chợ, Xương nhìn thấy chiếc xe môtô trên dựng trước tiệm thuốc tây sát với đường nhựa không người trông coi, Xương nói Hương dừng xe, cách chiếc xe trên khoảng 3m, Xương nhảy xuống xe đi bộ tới dắt chiếc xe trên đi ra chỗ Hương đứng. Hương nổ máy xe, Xương ngồi lên xe đã trộm cắp và Hương ở phía sau đẩy Xương cùng với xe đi. Cả hai đi theo đường bên hông chợ chạy vòng qua buôn Kết và đi theo đường phía sau cánh đồng cầu Hai đến trạm bơm thì dừng lại. Lúc này, Hương dùng tay cậy cốp xe lên, và phát hiện trong cốp xe có: 02 giấy đăng ký xe mô tô (một giấy của xe mang BKS: 81N1- 08529 đứng tên Đặng Thị Mai và một giấy của xe mang BKS: 81K – 0780 đứng tên Đặng Tất Thúy); 01 tuốc nơ vít, 01 cái cờ lê 10. Sau đó, Xương dùng tay tháo dây khóa điện của xe ra và đề xe nổ. Hương và Xương dắt xe vào trong nhà trống gần trạm bơm dấu và đi về buôn Chai. Đến khoảng 18 giờ cùng ngày Hương và Xương quay lại lấy xe và chạy về bãi cát gần sông Ba, thuộc buôn Chai, xã Chư Drăng. Tại đây, Hương dùng cờ lê và Tuốc nơ vít ở trong cốp xe mà chúng đã trộm cắp tháo bửng, biển số và chiếc gương chiếu hậu của xe vứt xuống sông Ba để tránh bị phát hiện. Sau đó Xương đã sử dụng chiếc xe trên để làm phương tiện đi lại.

Căn cứ kết luận định giá tài sản số 65/KL – HĐĐG, ngày 25/9/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS huyện Krông Pa xác định xe mô-tô BKS: 81N1-085.29 có giá trị là: 21.500.000 đồng.

Căn cứ kết luận định giá tài sản số 03/KL – HĐĐG, ngày 27/11/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS huyện Krông Pa xác định: 02 bửng xe; 02 biển số xe; 01 cờ lê 10; 01 tuốc nơ vít dài 10cm; 01 gương chiếu hậu; 02 giấy đăng ký xe mô tô và khấu hao xe trong quá trình sử dụng, có tổng giá trị là: 5.350.000 đồng.

Trong quá trình điều tra vụ án và tại phiên tòa hôm nay các bị cáo Nay Xương và Ksor Hương đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo Nay Xương và Ksor Hương không có ý kiến hay khiếu nại gì về các kết luận định giá nêu trên.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xét xử các bị cáo: Tuyên bố các bị cáo Siu Thứ và Ksor Nuôih phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm b, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 58 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Nay Xương từ 18 đến 24 tháng tù. Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm b, r, s khoản 1, khoản 2 điều 51, điểm g, h khoản 1 Điều 52, Điều 58 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Ksor Hương từ 26 đến 32 tháng tù.

Lời nói sau cùng của các bị cáo: Các bị cáo Nay Xương và Ksor Hương nhận thấy hành vi phạm tội của mình là vi phạm pháp luật, các bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu trong hồ sơ vụ án được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Krông Pa, Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pa trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Các bị cáo Nay Xương và Ksor Hương đã khai nhận toàn bộ hành vi mà bị cáo đã thực hiện, lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với lời khai của những người liên quan. Do đó, có đủ căn cứ để kết luận: Vào khoảng 13 giờ 30 ngày 12/4/2016, lợi dụng lúc chị Đặng Thị Lan Anh vào trong chợ Phú Túc, Ksor Hương và Nay Xương đã lén lút lấy trộm chiếc xe mô tô biển kiểm soát 81N1-085.29 có trị giá 21.500.000 đồng. Tiếp đến vào khoảng 22 giờ 00 ngày 04/5/2016, lợi dụng sự sơ hở không có người trong coi, Nay Xương và Ksor Hương đã lén lút lấy trộm chiếc xe môtô nhãn hiệu Yamaha – Sirius, biển kiểm soát 81N1- 099.80 của ông Kpă Bưi trị giá 17.000.000 đồng cùng với trị giá 02 bửng xe; 02 biển số xe; 01 cờ lê 10; 01 tuốc nơ vít dài 10cm; 01 gương chiếu hậu; 02 giấy đăng ký xe mô tô và khấu hao xe trong quá trình sử dụng có giá trị là: 5.350.000 đồng. Tổng giá trị tài sản mà Nay Xương và Ksor Hương trộm cắp là 43.850.000 đồng. Vì vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận hành vi của các bị cáo Ksor Hương và Nay Xương đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai đã truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản như trên của các bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ; gây ảnh hưởng xấu đến anh ninh, trật tự, an toàn xã hội tại địa phương. Vì vậy, cần phải có hình phạt thích đáng đối với các bị cáo. Xét về tính chất vụ án các bị cáo cùng thực hiện hành vi phạm tội nhưng không có sự thống nhất, không có sự tổ chức câu kết chặt chẽ với nhau, không lên kế hoạch thực hiện, không có người chỉ huy, cầm đầu nên đây là loại đồng phạm giản đơn. Nay cần xét đến nhân thân và các tình tiết tăng nặng cũng như các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo để cá thể hóa hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của từng bị cáo.

[4] Trong vụ án này bị cáo Nay Xương là người trực tiếp khởi xướng rủ rê bị cáo Ksor Hương thực hiện tội phạm. Hành vi trộm cắp tài sản thuộc tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “phạm tội 02 lần trở lên” được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Do đó cần xử phạt bị cáo nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo đồng thời răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội. Tuy nhiên, cũng cần xem xét tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo như bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; bị cáo là người đồng bào dân tộc thiểu số lại không biết chữ do đó nhận thức pháp luật còn hạn chế; trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa đã tỏ ra thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo tác động gia đình sửa chữa, bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả; bị cáo đã tự thú về hành vi phạm tội của mình; người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, r, s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật Hình sự. Do vậy, Hội đồng xét xử sẽ xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

[5] Đối với bị cáo Ksor Hương khi nghe bị cáo Nay Xương rủ rê đồng ý và là người tích cực, trực tiếp trộm cắp chiếc xe. Bị cáo có 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” cụ thể: Ngày 08/12/2015 bị Tòa án nhân dân huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai xử phạt 07 tháng tù. Sau khi chấp hành xong hình phạt bị cáo trở về địa phương sinh sống, chưa được xóa án tích thì lại tiếp tục có hành vi trộm cắp tài sản thuộc trường hợp tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Tái phạm” và trong lần phạm tội này bị cáo cũng đã 02 lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản được quy định tại điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Bị cáo không lấy đó làm bài học để rèn luyện, tu dưỡng bản thân trở thành người lương thiện, mà vẫn tiếp tục phạm tội, điều này thể hiện sự thiếu ý thức và coi thường pháp luật. Do đó cần xử phạt bị cáo nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo đồng thời răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội. Tuy nhiên, cũng cần xem xét tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo như bị cáo là người đồng bào dân tộc thiểu số nhận thức pháp luật còn hạn chế; trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa đã tỏ ra thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo tác động gia đình sửa chữa, bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả; bị cáo đã tự thú về hành vi phạm tội của mình; người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, r, s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật Hình sự. Do vậy, Hội đồng xét xử sẽ xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự khi lượng hình.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình giải quyết vụ án người bị hại là ông Kpă Bưi không có yêu cầu các bị cáo phải bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét. Tại phiên tòa người bị hại là chị Đặng Thị Lan Anh cũng không yêu cầu các bị cáo bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về vật chứng: Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha-Sirius; SM: 5C6J152762; SK: FY152767 là chủ sở hữu của ông Kpă Bưi cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Pa đã trả lại cho ông Kpă Bưi là đúng pháp luật.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha-Sirius; SM: 5C6H086733; SK: 5C6H0EY086719 là chủ sở hữu của chị Đặng Thị Lan Anh cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Pa đã trả lại cho chị Đặng Thị Lan Anh là đúng pháp luật.

Đối với xe mô tô biển kiểm soát 78G1-00263 là chiếc xe mà bị cáo Nay Xương và Ksor Hương sử dụng làm phương tiện để đi trộm cắp tài sản là chiếc xe thuộc quyền sở hữu hợp pháp của ông Ksor Sal (là bố đẻ của Nay Xương). Quá trình các bị cáo sử dụng xe mô tô trên để đi trộm cắp tài sản ông Ksor Sal không biết, nên Cơ quan CSĐT không tiến hành thu giữ là có căn cứ.

Đối với các bửng, biển số 81N1-099.80; 81N1-085.29; cờ lê 10, tuốc nơ vít, gương chiếu hậu, 02 giấy đăng ký xe mô tô sau khi trộm cắp các bị cáo đã vứt đi đã truy tìm nhưng không tìm thấy nên không xét.

[8] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Nay Xương, Ksor Hương phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Về hình phạt:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, r, s khoản 1, khoản 2 điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 58 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nay Xương 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam 06/9/2017.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, r, s khoản 1, khoản 2 điều 51, điểm g, h khoản 1 Điều 52, Điều 58 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Ksor Hương 26 (hai mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam 23/9/2017.

2 .Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, điểm a khoản 1 Điều 23, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án các bị cáo Nay Xương và Ksor Hương mỗi bị cáo phaûi chòu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

3.Quyền kháng cáo:

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, bị cáo, người bị hại, người liên quan có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Đối với những người vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai tại nơi cư trú để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm.

Trường hợp quyết định này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

258
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2018/HS-ST ngày 22/03/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:11/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Pa - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về