Bản án 11/2018/HNGĐ-ST ngày 28/03/2018 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ ĐỨC, TP HÀ NỘI

BẢN ÁN 11/2018/HNGĐ-ST NGÀY 28/03/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 28/3/2018 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mỹ Đức xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 283/2017/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 12 năm 2017 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2018/QĐXX-ST ngày 01 tháng 3 năm 2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn K, sinh năm 1992. Có mặt. Cư trú: thôn H, xã Đ, huyện Mỹ Đức, TP Hà Nội.

Bị đơn: Anh Lê Mạnh C, sinh năm 1988. Có mặt. Cư trú: thôn H, xã Đ, huyện Mỹ Đức, TP Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Chị Nguyễn K và anh Lê Mạnh C tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Đ, huyện Mỹ Đức ngày 28/11/2011. Sau khi cưới chị K sống cùng gia đình anh C. Do vợ chồng tính tình không hợp, bất đồng sâu sắc về quan điểm sống, lối sống nên vợ chồng anh chị chỉ hạnh phúc được một thời gian ngắn thì nảy sinh mâu thuẫn. Anh C còn có quan hệ ngoại tình nên từ cuối năm 2012 đầu năm 2013 vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng. Hai anh chị đã tìm nhiều biện pháp để hàn gắn nhưng không có kết quả. Từ tháng 5/2017 chị K bỏ về nhà mẹ. Tết năm 2018 để hàn gắn tình cảm vợ chồng, chị K đưa con về gia đình anh C. Do tình cảm vợ chồng không được cải thiện nên anh chị chỉ chung sống với nhau được một tuần thì chị K lại đưa con về nhà mẹ đẻ. Nay chị tha thiết xin được ly hôn.

Anh C thừa nhận từ tháng 5/2017 chị K bỏ anh về nhà mẹ đẻ, vợ chồng anh mỗi người có cuộc sống riêng. Tết 2018 chị K lại về chung sống với anh được một tuần rồi lại bỏ đi. Anh thừa nhận mình có lỗi nhưng anh vẫn còn tình cảm với chị K và đã chấm dứt việc ngoại tình. Anh đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị K để vợ chồng đoàn tụ cùng nhau nuôi dạy con cái.

Về con chung: vợ chồng anh chị có một con là cháu Lê K. N sinh ngày 25/10/2012. Từ khi vợ chồng ly thân cháu N ở với mẹ. Trường hợp vợ chồng ly hôn cả hai anh chị đều tha thiết xin được nuôi con không yêu cầu bên kia cấp dưỡng 

Anh chị không có tài sản, công nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng cácđương sự vẫn giữ nguyên quan điểm của mình.

Tại phiên toà Kiểm sát viên có ý kiến: Quá trình giải quyết vụ án toà án đã thực hiện đầy đủ các quy định về pháp luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án: đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Yêu cầu xin ly hôn của chị K phù hợp với quy định tại Điều 28 BLTTDS nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

[2] Về hôn nhân: Anh C và chị K kết hôn hợp pháp, cuộc sống chung vợ chồng hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Cả hai anh chị đều cố gắng hàn gắn tình cảm vợ chồng. Anh C biết lỗi và thừa nhận đã chấm dứt quan hệ ngoại tình. Chị K bỏ đi rồi cũng lại quay về chung sống với anh C nhưng không có kết quả. Hiện tại anh chị đã sống ly thân không ai quan tâm đến ai. Xét thấy hôn nhân anh chị thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Bởi vậy toà án chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị K là phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân gia đình.

[3] Về con chung: anh chị có một con chung là cháu Lê K N sinh ngày 25/10/2012. Sau ly hôn hai anh chị đều tha thiết xin được nuôi con không yêu cầu bên kia cấp dưỡng. Song xét thấy từ khi vợ chồng anh chị sống ly thân cháu N ở với mẹ. Mỗi lần đi khỏi nhà anh C cháu N đều theo ở với chị K. Gia đình anh C và gia đình chị K ở cùng thôn, gần nhà nhau. Dù cháu N ở với anh hoặc chị thì cũng rất thuận tiện cho cả hai anh chị chăm sóc con chung. Bởi vậy để tránh sự xáo trộn trong học tập sinh hoạt của cháu N nên giữ nguyên hiện trạng giao con cho chị K tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng.

Việc cấp dưỡng nuôi con do chị K không yêu cầu nên tạm hoãn cấp dưỡng nuôi con chung cho anh C cho đến khi có yêu cầu mới.

[5]Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5 Điều 27 Chương III Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án thì chị K phải nộp 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28; Khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5 Điều 27 Chương III Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;

Áp dụng Điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân gia đình năm 2014; Xử:

1.Chị Nguyễn K được ly hôn anh Lê Mạnh C.

2.Về con chung: anh chị có một con chung là cháu Lê K N sinh ngày 25/10/2012. Sau ly hôn giao cháu N cho chị K trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh C do chị K không có yêu cầu. Chị K và gia đình không ai được cản trở quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con của anh C.

3. Về tài sản chung, công nợ chung: Xác nhận anh chị không có, không yêu cầu toà giải quyết.

3.Về án phí: Chị Nguyễn K phải nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Đối trừ với số 300.000đ tiền tạm ứng án phí chị đã nộp theo biên lai thu tiền số 0001691 ngày 11/12/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Mỹ Đức thì chị không còn phải nộp nữa.

Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2018/HNGĐ-ST ngày 28/03/2018 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

Số hiệu:11/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Đức - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về