Bản án 11/2017/HNGĐ-ST ngày 30/03/2017 về tranh chấp ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH B

BẢN ÁN 11/2017/HNGĐ-ST NGÀY 30/03/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

ngày 30 tháng 3 năm 2017. Tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố B mở phiên toà công khai để xét xử sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số: 157/2016/TLST-HNGĐ, ngày 20 tháng 12 năm 2016 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2017/QĐXX-ST ngày 14 tháng 3 năm 2017 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Kim H, sinh năm 1975.

Trú tại: Số 27, ngõ 382, đường HQV, khu 4, phường T, thành phố B, tỉnh B (Có mặt).

Bị đơn: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1972.

Trú tại: Thôn Thái Bảo, xã N, thành phố B, tỉnh b (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 06/12/2016 và các lời khai tiếp theo tại Toà án và tại phiên toà ngày hôm nay, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Kim H trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn H kết hôn ngày 26 tháng 4 năm 2016, trước khi kết hôn anh, chị có được tự do tìm hiểu và tự nguyện đăng ký kết hôn tại UBND xã N, thành phố B, tỉnh b. Sau khi kết hôn chị về làm dâu nhà anhị H ngay. Cuộc sống chung giữa vợ chồng chị chỉ hòa thuận, hạnh phúc trong khoảng thời gian một tháng thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh H hay ghen tuông, nghi ngờ chị, nên anh H thường xuyên chửi bới, xúc phạm chị; Do không chịu đựng được mãi cảnh như vậy nên chị đã ba lần bỏ về nhà bố mẹ đẻ chị ở. Anh H đã nhiều lần xin lỗi, chị quay về chung sống, nhưng sau đó anh H còn chửi bới, xúc phạm chị nhiều hơn, nên đến tháng 10 năm 2016 chị đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ chị ở, hai vợ chồng sống li thân suốt từ đó đến nay không còn quan hệ tình cảm qua lại với nhau nữa. Nay chị xác định không thể tiếp tục chung sống với anh H được nữa, chị H yêu cầu Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh H.

Về con chung: Trong thời gian chung sống, giữa chị H và anh H có 01 con chung là Nguyễn Trung H, sinh ngày 05 tháng 11 năm 2016, hiện cháu đang ở với chị. Nếu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anhị H, chị yêu cầu được nuôi cháu Hiếu, chị không yêu cầu anhị H phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và công nợ chung: Không có. Tại phiên toà hôm nay, chị H vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với anhị H.

Bị đơn là anh Nguyễn Văn H trình bầy: Anh thừa nhận lời trình bầy của chị H về thời điểm, điều kiện kết hôn, thời điểm phát sinh mâu thuẫn vợ chồng, về con chung, tài sản chung và công nợ chung. Về nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn vợ chồng anh cho rằng: Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn vợ chồng là do chị H không quan tâm quán xuyến tới công việc gia đình, khi anh góp ý thì chị H cãi lại và xử sự không đúng mực, chị H đã hai lần tự ý bỏ về nhà bố mẹ đẻ chị H ở, lần cuối cùng chị H bỏ đi là tháng 10 năm 2016; Hai vợ chồng sống ly thân suốt từ đó đến nay không còn quan hệ tình cảm với nhau nữa. Nay chị H xin ly hôn, anh hoàn toàn nhất trí. Về con chung, nếu ly hôn anh đồng ý để chị H tiếp tục nuôi cháu Hiếu; Việc cấp dưỡng nuôi con chung, anh không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tài sản chung, công nợ chung: Không có. Trong thời gian chung sống, chị H không có đóng góp gì trong việc phát triển kinh tế gia đình.

Quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã triệu tập anh H để, hòa giải theo quy định của pháp luật nhưng anh xin được vắng mặt, không đến Toà án để tham gia phiên hoà giải, nên Tòa án không tiến hành hòa giải được. Tòa án đã tiến hành giao quyết định đưa vụ án ra xét xử cho anhị H, nhưng anhị H xin vắng mặt tại phiên tòa, do vậy HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là anh Nguyễn Văn H theo quy định của pháp luật. Đại diện Viện kiểm sát phát biểu và kết luận việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, HĐXX và của nguyên đơn là đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật; Đối với bị đơn là anh Nguyễn Văn H chưa chấp hành đúng quy định của pháp luật. Về hướng giải quyết vụ án: Xét mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Nguyễn Thị Kim H và anh Nguyễn Văn H là trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, căn cứ điều 55 Luật hôn nhân và gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết cho chị Nguyễn Thị Kim H được ly hôn anh Nguyễn Văn H; Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị Kim H chăm sóc nuôi dưỡng con chung là cháu Nguyễn Trung H, sinh ngày 05 tháng 11 năm 2016, việc cấp dưỡng nuôi con chung không đặt ra xem xét giải quyết; Về tài sản chung, công nợ chung: Không có nên không đặt ra xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà hội đồng xét xử nhận định.

1. Về quan hệ hôn nhân:

Chị Nguyễn Thị Kim H và anh Nguyễn Văn H kết hôn ngày 26 tháng 4 năm 2016, trước khi kết hôn anh, chị có được tự do tìm hiểu và tự nguyện đăng ký tại kết hôn UBND xã N, thành phố B, tỉnh B, theo giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 30 ngày 26 thánh 4 năm 2016, xét thấy đây là hôn nhân hợp pháp vì tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật về kết hôn.

Sau khi kết hôn chị H về chung sống cùng gia đình anh H ngay, cuộc sống chung giữa vợ chồng chị chỉ hoà thuận, hạnh phúc trong khoảng thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do hai vợ chồng có sự bất đồng quan điểm trong cuộc sống; Do không chịu đựng được cảnh như vậy, nên chị H đã nhiều lần bỏ về nhà bố mẹ đẻ chị ở, đến tháng 10 năm 2016 chị H đã bỏ hẳn về nhà bố mẹ đẻ chị ở, hai vợ chồng sống li thân suốt từ đó đến nay không còn quan hệ tình cảm qua lại với nhau nữa. Nay chị H xin được ly hôn, anh H cũng đồng ý ly hôn, căn cứ điều 55 Luật hôn nhân và gia đình, cần công nhận sự thuận tình ly hôn giữa anh Nguyễn Văn H và chị Nguyễn Thị Kim H.

2. Về con chung: Trong thời gian chung sống  giữa anh Nguyễn Văn H và chị Nguyễn Thị Kim H đã có 01 con chung là: Nguyễn Trung H, sinh ngày 05 tháng 11 năm 2016, hiện cháu đang ở với chị H; Nếu ly hôn, chị H yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu H và không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con chung, anh H cũng nhất trí, do vậy căn cứ Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình, giao con chung là cháu Nguyễn Trung H, sinh ngày 05 tháng 11 năm 2016 cho chị Nguyễn Thị Kim H chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp yêu cầu của anh H, chị H. Việc cấp dưỡng nuôi con chung không đặt ra xem xét giải quyết do chị H không có yêu cầu.

3. Về tài sản chung và công nợ chung: Không có.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Kim H phải chịu tiền án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 147, 227, 228, 239, 243, 248, 254, 260, 261, 262, 264, 266 Bộ luật tố tụng dân sựCăn cứ Điều 51, 53, 55, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

1. Về quan hệ vợ chồng: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa anh Nguyễn Văn H và chị Nguyễn Thị Kim H.

2. Về con chung:  Giao con chung là cháu Nguyễn Trung H, sinh ngày 05 tháng 11 năm 2016 cho chị Nguyễn Thị Kim H chăm sóc, nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng nuôi con chung không đặt ra xem xét giải quyết do chị H không có yêu cầu.

Sau ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3.Về tài sản chung và công nợ chung: Không có nên không đặt ra xem xét giải quyết

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Kim H phải chịu 200.000đ án phí ly hôn sơ thẩm, được đối trừ số tiền 200.000đ tạm ứng án phí chị H đã nộp tại biên lai số AA/2013/01735 ngày 15/12/2016 của Chi cục thi hành án dân sự  thành phố Bắc Ninh; Xác nhận chị H đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

Nguyên đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được kết quả bản án hoặc nhận được bản sao bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

283
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2017/HNGĐ-ST ngày 30/03/2017 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:11/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bến Tre - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/03/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về