Bản án 104/2020/HSPT ngày 20/03/2020 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 104/2020/HSPT NGÀY 20/03/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 20 tháng 3 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 21/2020/TLPT-HS ngày 03 tháng 01 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 67/2020/QĐXXPT-HS ngày 17 tháng 02 năm 2020 và quyết định hoãn phiên tòa số 23/2020/QĐHPTPT-HS ngày 26/02/2020 đối với các bị cáo Đõ Tuấn A, Nguyễn Thế L và Vũ Văn D. Do có kháng cáo của bị cáo Anh, L và Duy đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 459/2019/HSST ngày 30/09/2019 của tòa án nhân dân thành phố B. Bị cáo kháng cáo:

1. Đõ Tuấn A, sinh năm 1991, tại Ninh Bình; Nơi cư trú: số nhà M, Tổ S, phường L1, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: buôn bán; Trình độ văn hóa (học vấn): 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Đỗ Văn Q, sinh năm 1967 và bà Phạm Thị H, sinh năm 1971; gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ nhất; chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị bắt khẩn cấp ngày 23/08/2018, được hủy bỏ tạm giữ theo Quyết định số 7288 ngày 31/08/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, bị áp dụng biên pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú theo Lệnh số 205 ngày 31/08/2018 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B. Hiện nay đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặng cấm đi khỏi nơi cư trú theo quyết định cấm đi khỏi nơi cư trú số 715/QĐCĐKNCT ngày 30/9/2019 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai - Bị cáo có mặt.

2. Nguyễn Thế L, tên gọi khác: Hèm; sinh năm 1988, tại Đồng Nai; Nơi cư trú: Số nhà K, khu phố i, phường L1, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: buôn bán; Trình độ văn hóa (học vấn): 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên Chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Tử T2, sinh năm 1962 và bà Trần Thị Kim D, sinh năm 1966; gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Có vợ tên: Nguyễn Vũ Bảo C, sinh năm 2000, có 01 con sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị áp dụng biên pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú theo Lệnh số 241 ngày 04/10/2018 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B. Hiện nay đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú theo quyết định cấm đi khỏi nơi cư trú số 716/QĐCĐKNCT ngày 30/9/2019 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai - Bị cáo có mặt.

3. Vũ Văn D, tên gọi khác: Duy Bống; sinh năm 1991, tại Ninh Bình; Nơi cư trú: 446/17, tổ 32, khu phố i, phường L1, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: lái xe; Trình độ văn hóa (học vấn): 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam;

Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Vũ Hồng S, sinh năm 1959 và bà Đỗ Thị P, sinh năm 1960; gia đình có 05 anh em, bị cáo là con thứ tư; có vợ tên Lê Thị Cẩm T3, sinh năm 1995, bị cáo có 02 con sinh năm 2016 và 2017; Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị áp dụng biên pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú theo Lệnh số 252 ngày 15/10/2018 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B. Hiện nay đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặng cấm đi khỏi nơi cư trú theo quyết định cấm đi khỏi nơi cư trú số 717/QĐCĐKNCT ngày 30/9/2019 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai - Bị cáo có mặt.

-Người bào chữa cho bị cáo Đõ Tuấn A: Luật sư Nguyễn Duy B1 - Đoàn Luật sư thành phố Hồ Chí Minh.

-Người bị hại: Anh Trịnh Văn T, sinh năm 1996 - vắng mặt.

Nơi cư trú: Thôn Tía Sông, xã An, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai và bản án hình sự sơ thẩm số: 459/2019 /HS-ST ngày 30/9/2019 của tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai được tóm tắt như sau:

Đõ Tuấn A và anh Trịnh Văn T, sinh năm 1996, ngụ tại thôn Tía Sông, xã An, huyện B4,tỉnh Hà Nam cùng thuê mặt bằng tại số Số nhà G, khu phố 6, phường L1, thành phố B để mở cửa hàng buôn bán.

Do nghi ngờ anh T nói xấu Avới chủ nhà dẫn đến việc Akhông được thuê mặt bằng buôn bán nên Arủ Nguyễn Thế L đến tiệm gặp anh T để nói chuyện. Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 31/01/2018, Ađiều khiển xe mô tô biển số 60F2-52478 chở Nguyễn Thế L đến cửa hàng bán quần áo của anh T tại số Số nhà G, khu phố 6, phường L1, thành phố B. Khi đến cửa hàng của T, Avà T lời qua tiếng lại cãi nhau, Adùng tay đấm vào lưng anh T, anh T chống trả, dùng dao Thái Lan dí đuổi nên Avà L bỏ về.

Tn đường về, L bực tức vì T dùng dao dí đuổi nên rủ Aquay lại đánh T. Achở L về nhà L lấy 02 con dao tự chế dài khoảng 60cm, mũi nhọn, bản rộng 03 cm cất vào trong cốp xe moto hiệu Airblade biển số 39F1-9362 của L. Cùng lúc này, cả hai gặp Vũ Văn D (bạn của Avà L). L và Akể cho Duy nghe về việc bị anh T dùng dao đuổi đánh và rủ Duy đi đánh T. Duy đồng ý. Achạy xe moto biển số 60F2- 52478 đi trước. L chở Duy bằng xe moto biển số 39F1-9362 đi sau A20m.

Khong 20 giờ cùng ngày, Ađến trước cửa hàng và nhìn thấy anh T ở trong cửa hàng, Adừng lại vẫy tay và ra hiệu cho Duy và L tới. Khi thấy Tuấn Anh, anh T cầm 01 cây inox trên tay để phòng vệ. L dừng xe mở cốp lấy 02 con dao tự chế đưa cho Duy 01 con, L cầm 01 con, còn A cầm 01 cây phơi đồ bằng inox dài khoảng 02 m, đường kính khoảng 02 cm rồi cả ba cùng xông vào dồn anh T vào phía góc tiệm bên trái. L chém 02 nhát trúng vào người anh T, Duy dùng dao chém 01 nhát ngang người anh T, Adùng cây inox đánh nhiều cái vào vai và cánh tay anh T. Sau khi gây án, Avứt cây inox tại hiện trường, sau đó cả ba lên xe bỏ chạy về phía sân vận động tỉnh Đồng Nai. Duy và L vứt 02 con dao tự chế vào bụi cỏ ven đường. Anh T được mọi người đưa đến bệnh viện điều trị.

-  Ti Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 0213/GĐPY/2018 ngày 23 tháng 03 năm 2018 của Giám định viên Trung tâm pháp y , đã kết luận tỷ lệ tổn thương cơ thể của anh Trịnh Văn T như sau:

- Tổn thương mẻ đầu dưới xương cánh tay trái (áp dụng chương 08, Điều 1, mục 8.4). Tỷ lệ: 03%.

- Vết thương khâu mặt sau khuỷu tay trái đứt gần hoàn toàn gân cơ tam đầu đã phẫu thuật khâu gân cơ, hiện hạn chế vận động khuỷu tay trái trong khoảng từ 05-95 (áp dụng chương 08, Điều II, mục 3.2.1). Tỷ lệ 11%.

- Vết thương khuỷu tay trái để lại sẹo kích thước 06x0,3cm (áp dụng chương 9, Điều 01, mục 01). Tỷ lệ 02%.

- Tỷ lệ tổn thương cơ thể (áp dụng phương pháp cộng lùi) do thương tích gây lên tại thời điểm giám định là 15% (mười lăm phần trăm).

- Vật gây thương tích: vật sắc.

-  Vt chứng thu giữ gồm:

- 02 con dao tự chế dài khoảng 60cm, mũi nhọn, bản rộng khoảng 03cm và 01 cây phơi đồ inox dài khoảng 02m, đường kính khoảng 02cm sau khi gây án các bị cáo đã vứt bỏ, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã truy tìm nhưng không thu giữ được.

- 01 file video ghi lại vụ việc Cố ý gây thương tích.

- 01 xe môtô biển số 60F2-52478 của Đõ Tuấn A, sau khi gây án, Ađể xe ở nhà, bà Phạm Thị H (mẹ ruột của Tuấn Anh) bán đi, do bà H bỏ đi khỏi địa phương nên Cơ quan điều tra chưa làm việc được. Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

- Xe môtô biển số 39F1-9362 là tài sản thuộc sở hữu của bà Trần Thị Kim D (mẹ ruột L). Bà Dkhông biết L sử dụng xe vào việc phạm tội. Cơ quan điều tra Công an thành phố B đã trả xe cho bà Dung.

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia có số thuê bao: 0963.800.663, số imeil:

35443099158775 của Nguyễn Thế L không liên quan đến hành vi phạm tội.

-  Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra các bị cáo Nguyễn Thế L và Vũ Văn D đã bồi thường cho anh Trịnh Văn T xong. Bị hại T không yêu cầu các bị cáo bồi thường.

-  Ti Bản Cáo trạng số 308/CT-VKSBH ngày 13 tháng 6 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B truy tố các bị cáo Đõ Tuấn A, Nguyễn Thế L và Vũ Văn D về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 459/2019/HS-ST ngày 30/9/2019 và thông báo sửa đổi bổ sung bản án số 121/2019/TBTA ngày 09/10/2019 của tòa án nhân dân thành phố B đã căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 47, Điều 48, Điều 58 Bộ luật hình sự; Điều 106; Điều 136; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

- Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự (đối với các bị cáo Nguyễn Thế L, Vũ Văn D);

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Đõ Tuấn A, Nguyễn Thế L và Vũ Văn D phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

2. Về hình phạt:

- Xử phạt bị cáo Đõ Tuấn A 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt đi thi hành án, được trừ thời hạn tạm giam, tạm giữ trước đó, từ ngày 23/8/2018 đến ngày 31/8/2018.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thế L 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt đi thi hành án.

- Xử phạt bị cáo Vũ Văn D 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt đi thi hành án.

3. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại anh Trịnh Văn T không có yêu cầu bồi thường nên không xem xét.

4. Về xử lý vật chứng:

- Đối với các tài sản Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã xử lý trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là đúng quy định nên Hội đồng xét xử không xem xét lại.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thế L 01 điện thoại di động hiệu Nokia có số thuê bao: 0963.800.663, số imeil: 35443099158775, do không liên quan đến hành vi phạm tội.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 22 tháng 11 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B).

Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 10/10/2019 bị cáo Vũ Văn D và Nguyễn Thế L kháng cáo bản án xin giảm nhe hình phạt.

Ngày 14/10/2019 bị cáo Đõ Tuấn A kháng cáo bản án xin giảm nhe hình phạt.

Quan điểm đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai: Hành vi của bị các bị cáo Tuấn Anh, L và Duy đã cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự. Cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để xem xét bị cáo mức án là phù hợp. Không nặng như kháng cáo của các bị cáo kháng đã nêu. Tại phiên tòa phiên tòa phúc bị cáo Acó cung cấp chứng cứ mới là gia đình bị cáo có công với cách mạng ông nội có huân chương kháng chiến chống mỹ. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo Tuấn Anh.

*Ý kiến của luật sư bào chữa cho bị cáo Đõ Tuấn A:

- Bị cáo Akhông có chủ động về hung khí - Hung khí bị cáo Asử dụng là cây Inox nhẹ không gây thương tích cho bị hại cho nên không phải là hung khí nguy hiểm - Cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Ahình phạt cáo hơn các bị cáo khác là không đúng - Đối với bị hại không hợp tác nhận tiền bồi thường của bị cáo Acho nên đây là tình tiết được coi như bị cáo đã bồi thường - Bị cáo Acó cung cấp cho Tòa án chứng cứ mới là gia đình bị cáo có công với cách mạng có ông nội được nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến chống mỹ đây là tình tiết giảm nhẹ, tình tiết mới nên đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Tuấn Anh.

- Hành vi phạm phạm tội của bị cáo Anhẹ hơn bị cáo L nhưng cấp sơ thẩm lại xét xử mức án cao hơn là không đúng. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử sửa án sơ thẩm chấp nhận kháng cáo của bi cáo Axin giảm nhẹ hình phạt giảm xuống 01 năm 06 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của của các bị cáo Tuấn Anh, L và Duy làm trong thời hạn luật định nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố B, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo Tuấn Anh, L và Duy:

Khong 20 giờ ngày 30/01/2018, tại nhà số Số nhà G, khu phố 6, phường L1, thành phố B, do nghi ngờ và mâu thuẫn với anh Trịnh Văn T liên quan đến việc thuê mặt bằng buôn bán, Đõ Tuấn A rủ Nguyễn Thế L đến cửa hàng của anh T. Atranh cãi và dùng tay đánh anh T. Khi thấy anh T chống trả và dùng dao Thái Lan đe dọa, đuổi cả hai ra khỏi cửa hàng thì Nguyễn Thế L tức giận và rủ Tuấn Anh, Vũ Văn D quay lại để đánh T. Các bị cáo dùng dao tự chế dài khoảng 60cm, mũi nhọn, bản rộng khoảng 03cm và cây inox dài khoảng 02m, đường kính khoảng 02cm đánh anh T gây thương tích với tỷ lệ thương tật 15%. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự.

Từ những phân tích trên, xét thấy Tòa án nhân dân thành phố B tuyên bố các bị cáo Đõ Tuấn A, Nguyễn Thế L và Vũ Văn D phạm tội “Cố ý gây thương tích”, theo quy định tại điểm a khoản 1Điều 134 và điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự, là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đều thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải; các bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự; Các bị cáo Nguyễn Thế L, Vũ Văn D đã tự nguyện ra đầu thú, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Đi với các bị cáo Nguyễn Thế L, Vũ Văn D đã tự nguyện bồi thường thiệt hại và được người bị hại làm đơn bãi nại, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về quyết định hình phạt: Hành vi phạm tội của các bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, đã gây xâm phạm đến sức khỏe của người khác, được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần phải có hình phạt nghiêm để cải tạo, giáo dục các bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

Trong vụ án này, các bị cáo tham gia với vai trò khác nhau:

- Bị cáo Đõ Tuấn A là người gây ra mâu thuẫn, đồng thời tích cực tham gia cùng đồng phạm trong việc gây thương tích cho bị hại, do đó bị cáo phải chịu mức án cao nhất. Cấp sơ thẩm đã xử bị cáo với mức án 02 năm 06 tháng tù là đúng quy định của pháp luật. Tại phiên tòa bị cáo Acó cung cấp được chứng cứ mới là gia đình bị cáo có công với cách mạng có ông nội được nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến chống mỹ đây là tình tiết để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó, kháng cáo của bị cáo Axin giảm nhẹ hình phạt được Hội đồng xét xử chấp nhận nên giảm hình phạt cho bị cáo khi lượng hình. Đối với lời khai của bị cáo Tuấn Anh, cho rằng bị cáo đã tự nguyện dùng tiền để khắc phục hậu quả nhưng bị hại từ chối nhận, tuy nhiên bị cáo không xuất trình được chứng cứ chứng minh việc trên nên không có cơ sở xem xét.

- Bị cáo Nguyễn Thế L là người rủ rê, chuẩn bị hung khí, trực tiếp dùng dao chém và gây thương tích chính cho nguời bị hại, do đó phải chịu mức tương xứng với bị cáo Tuấn Anh. Cấp sơ thẩm đã xử bị cáo với mức án 02 năm tù là có xen xét giảm nhẹ cho bị cáo.

- Bị cáo Vũ Văn D là người tham gia tích cực cùng đồng phạm trong việc gây thuơng tích cho người bị hại, bị cáo có vai trò thấp nhất. Cấp sơ thẩm đã xử bị cáo với mức án 01 năm 06 tù là có xen xét giảm nhẹ cho bị cáo.

Tại phiên tòa các bị cáo L và Duy không cung cấp được chứng cứ chứng minh để giảm nhẹ hình phạt. Do đó, kháng cáo của các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt không được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về án phí: Kháng cáo của các bị cáo L và Duy không được chấp nhận nên phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[7] Quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

- Ý bào chữa của luật sư Bình bào chữa cho bị cáo Akhông đúng quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không chấp nhận toàn bộ, chỉ chấp nhận phần chứng cứ mới do bị cáo cung cấp là gia đình bị cáo có công với cách mạng có ông nội được Nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến chống mỹ đây là tình tiết để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

-Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

*Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134; điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự; Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đõ Tuấn A. Sửa một phần bản án sơ thẩm số 459/2019/HSST ngày 30/9/2019 về hình phạt đối với bị cáo Đõ Tuấn A.

- Xử phạt: Bị cáo Đõ Tuấn A 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt đi thi hành án, được trừ thời hạn tạm giam, tạm giữ trước đó, từ ngày 23/8/2018 đến ngày 31/8/2018.

* Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự (đối với các bị cáo Nguyễn Thế L, Vũ Văn D); Điều 54 (đối với bị cáo Vũ Văn D) 2. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thế L và Vũ Văn D về giảm nhẹ hình phạt.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thế L 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt đi thi hành án.

- Xử phạt bị cáo Vũ Văn D 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt đi thi hành án.

3. Về án phí: Bị cáo Đõ Tuấn A không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Buộc các bị cáo Nguyễn Thế L và Vũ Văn D phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự phúc thẩm.

Các Quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị 4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 104/2020/HSPT ngày 20/03/2020 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:104/2020/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về