Bản án 1029/2017/DS-PT ngày 13/11/2017 về tranh chấp ranh đất và hủy giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1029/2017/DS-PT NGÀY 13/11/2017 VỀ TRANH CHẤP RANH ĐẤT VÀ HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỞ HỮU NHÀ Ở VÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT Ở

Trong các ngày 07 và ngày 13 tháng 11 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 620/2016/DSPT ngày 03 tháng 11 năm 2016 về việc “tranh chấp ranh đất và hủy giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 367/2016/DSST ngày 23/09/2016 của Tòa án nhân dân Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 2264/2017/QĐ-PT ngày 12 tháng 10 năm 2017, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Ngô Xuân T, sinh năm 1960; Địa chỉ: 2982A Đường TH, phường B, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt tại phiên tòa).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn:

- Ông Phạm Công U - Luật sư thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt tại phiên tòa ngày 07/11/2017, vắng mặt tại phiên tòa ngày 13/11/2017)

- Ông Cao Thế L – Luật sư thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt tại phiên tòa ngày 07/11/2017, ông T rút yêu cầu Luật sư L bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp)

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Ngọc M, sinh năm 1954; Địa chỉ: 2982B Phạm Thế Hiển, phường B, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Ông Nguyễn Đăng K tham gia tố tụng theo Giấy ủy quyền ngày 09/01/2017 tại Văn phòng Công chứng Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt tại phiên tòa)

 3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1. Bà Đinh Thị V, sinh năm 1960; Địa chỉ: 2982A Đường TH, phường B, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh (Có mặt tại phiên tòa) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà V:

- Ông Phạm Công U - Luật sư thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt tại phiên tòa ngày 07/11/2017, vắng mặt tại phiên tòa ngày 13/11/2017)

- Ông Cao Thế L – Luật sư thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt tại phiên tòa ngày 07/11/2017, bà V rút yêu cầu Luật sư Luận bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp)

3.2. Bà Lê Thị T1, sinh năm 1954; Địa chỉ: 2982B Đường TH, phường B, Quận X Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp của bà T1: Ông Nguyễn Đăng K theo giấy ủy quyền ngày 09/01/2017 tại Văn phòng Công chứng quận X, Thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt tại phiên tòa)

3.3. Ủy ban nhân dân Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh; Địa chỉ: số 4 Đường N, Phường F, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp của Ủy ban nhân dân Quận X: Ông Trương Hạ L1, đại diện tham gia tố tụng theo văn bản ủy quyền số 2014/UBND-NC ngày 29/08/2016 (Vắng mặt theo đơn ngày 13/01/2017).

Người kháng cáo: Ông Nguyễn Ngọc M – bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 16 tháng 02 năm 2012 cùng các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, ông Ngô Xuân T trình bày như sau:

Nhà đất số 2982A Đường TH, Phường B, Quận X thuộc sở hữu của ông Ngô Xuân T và bà Đinh Thị V theo Giấy chứng nhận số hồ sơ gốc 03146/2004 do Ủy ban nhân dân Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 15/03/2004, có nguồn gốc quyền sử dụng đất mua lại của ông Nguyễn Ngọc M và bà Lê Thị T1 vào năm 1986 bằng giấy tay, có diện tích ngang 4m và chiều dài từ mặt đường chạy thẳng đến mép bờ sông. Ngay sau khi mua, ông bà đã cất nhà lên ở đến nay.

Vào tháng 01/2012, gia đình nhà ông Nguyễn Ngọc M xây dựng nhà đã lấn chiếm qua phần đất nhà ông có nơi 30cm, có nơi 40cm, ông đã làm đơn khiếu nại đến cơ quan nhà nước giải quyết nhưng không có kết quả.

Nay ông khởi kiện yêu cầu ông M phải tháo dỡ phần lấn chiếm, trả lại đất cho ông tổng cộng 10,3m2.

Ông T có đơn yêu cầu bổ sung ngày 21/04/2016 yêu cầu Ủy ban nhân dân Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh phải thu hồi Giấy chứng nhận quyền sở hửu nhà ở và quyền sử dụng đất ở của gia đình ông M và bà T1 để điều chỉnh lại cho đúng diện tích.

Đối với số tiền tạm ứng để tiến hành đo vẽ hiện trạng nhà đất theo hợp đồng số 9046/DĐBĐ – VPTP ngày 12/09/2012 và hóa đơn số 0032016 ngày 12/09/2012 của Trung tâm Đo đạc Bản đồ là 7.390.790 đồng, ông T1 yêu cầu phía bị đơn phải chịu.

Về phía bị đơn ông Nguyễn Ngọc M trình bày:

Ông Nguyền Ngọc M và bà Lê Thị T1 là chủ sở hữu nhà đất tại số 2982B đường TH, phường B, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh, đã được Ủy ban nhan dân Quận X cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số BG 847036 vào ngày 02/11/2011.

Trước đây, năm 1986, ông và vợ là Lê Thị T1 có bán cho vợ chồng ông T và bà V phần đất kế nhà ông có bề ngang phía trước là 4m, ngang phía sau là 3,6m và dài đến bờ sông nhưng không làm giấy tờ mà chỉ thỏa thuận bằng miệng.

Năm 1994, ông M và bà T1 sửa chữa nâng nền nhà, đến năm 2012 ông bà tiếp tục sửa chữa nâng nền, nâng mái nhà. Tuy nhiều lần sửa chữa nâng nền nhưng không lấn chiếm đất của bà V, ông T nên không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn..

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan - Bà Đinh Thị V cùng ý kiến với ông T: Yêu cầu ông M, bà T1 trả lại phần đất lấn chiếm khoản 10,30 m2.

- Bà Lê Thị T1 cùng ý kiến với ông M, cho rằng ông bà không lấn chiếm đất của ông T, bà V nên không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

- Ủy ban nhân dân Quận X do ông Trương Hạ L1 trình bày: Ủy ban nhân dân Quận X cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở cho hộ của ông Nguyễn Ngọc M theo đúng trình tự luật định, việc tranh chấp ranh đất giữa nhà ông T và ông M phát sinh sau khi Ủy ban cấp giấy cho hộ ông M nên Ủy ban không có ý kiến. Ông Trương Hạ L1 có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt ông.

Tòa án nhân dân Quận X đã đưa vụ án ra xét xử và quyết định tại Bản án sơ thẩm số 367/2016/DSST ngày 23/9/2016 như sau: “Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn ông Ngô Xuân T.

Xác định ranh đất giữa 2 nhà - đất số 2982A của ông Ngô Xuân T, bà Đinh Thị V và nhà số 2982B của ông Nguyễn Ngọc M, bà Lê Thị T1, đường Đường TH, Phường B, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh cụ thể như sau:

Tường nhà số 2982B Đường TH, Phường B, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh từ đường nhìn vào bên phải giáp ranh với nhà ông T số 2982A lấy mốc giữa 2 bờ tường (nhà ông M và ông T) thẳng ra phía sau đến phần cuối giáp bờ sông: bề ngang đất ông T, bà V là 4 m. Phần nhà của ông M và bà T1 lấn chiếm sang đất nhà ông T bà V là 0,40 m trả lại phần đất nhà của ông T, bà V có bề ngang là 4m (Theo bản đồ hiện trạng vị trí xác định ranh của trung tâm đo đạt bản đồ - Sở tài nguyên môi trường Thành phố Hồ Chí Minh lập ngày 24/12/2012).

Ông Nguyễn Ngọc M và bà Lê Thị T1 phải tháo dỡ phần nhà xây dựng lấn chiếm trả lại cho Ngô Xuân T và bà Đinh Thị V phần đất lấn chiếm có tổng diện tích là 10,30 m2 đt tọa lạc tại số 2982A Đường TH, Phường B, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh (có giá trị 206.000.000 đồng) thi hành ngay sau khi án phát sinh hiệu lực pháp luật.

Ông Nguyễn Ngọc M và bà Lê Thị T1 phải trả lại cho ông Ngô Xuân T số tiền tạm ứng chi phí đo đạc lập bản vẽ và định giá là 7.390.790 đồng.

Kể từ ngày nguyên đơn có đơn yêu cầu thi hành án nếu bi đơn chưa thi hành như án đã tuyên thì hàng tháng còn phải chịu thêm tiền lãi theo mức lãi suất cơ bản do ngân hàng nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

Kiến nghị ủy ban nhân dân Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số BG847036 ngày 02/11/2011 của Ủy ban nhân dân Quận X cấp cho ông Nguyễn Ngọc M và bà Lê Thị T1 cho đúng diện tích.” Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, quyền yêu cầu thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 03/10/2016, bị đơn ông Nguyễn Ngọc M kháng cáo không đồng ý bản án sơ thẩm do cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét các chứng cứ của ông xuất trình, yêu cầu xét xử phúc thẩm toàn bộ nội dung vụ án.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Các bên đương sự không thỏa thuận được về việc giải quyết vụ án. Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, người kháng cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và các bên nêu ý kiến như sau:

Người đại diện cho ông Nguyễn Ngọc M kháng cáo trình bày: Ông M và bà T1 có chuyển nhượng cho ông T, bà V phần đất có bề ngang phía trước là 4m, ngang phía sau là 3,6m từ mặt tiền đường TH kéo dài đến bờ sông. Nguyên đơn cho rằng phần sau giáp Kênh Đ bị đơn giao thiếu cho nguyên đơn 0,4m ngang, tổng diện tích đất bị thiếu là 13m2 nhưng không có gì chứng minh. Theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở của ông T, bà V cấp năm 2004 thể hiện đúng hiện trạng nhà đất của nguyên đơn như thực tế xây dựng năm 1986 và nguyên đơn cũng không khiếu nại từ suốt năm 2005 cho đến khi bị đơn sửa nhà năm 2012. Bản vẽ hiện trạng vị trí và ranh giới do Trung Tâm Đo đạc bản đồ lập ngày 29/09/2017 cũng thể hiện không có khoảng hở giữa hai nhà, chứng minh rằng giữa hai nhà không có khoảng hở 40cm mà ông T chừa ra, đồng thời chứng minh phần phía sau của nguyên đơn có chiều ngang 3,39m nhưng thực tế bị đơn sử dụng 3,6m nên bị đơn không lấn chiếm đất của nguyên đơn. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm thiếu khách quan khi ghi nhận hiện trạng số đo khoảng cách thực tế “bằng mắt thường” nên xét xử đã không xem xét đầy đủ các chứng cứ. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị đơn, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Ông T và bà Vy có cùng ý kiến trình bày: Ông bà mua nhà đất của ông M, bà T1 là 4m chiều ngang kéo dài từ trước ra sau, thể hiện trong giấy tờ mua bán mà ông bà đã nộp khi là hợp thức hóa chủ quyền nhà. Khi xây nhà, ông bà xây 3,6m ngang, chừa lại 0,4m sau này bị ông M lấn chiếm. Ông bà được cấp chủ quyền nhà năm 2005 nhưng không khiếu nại cho đến khi ông M xây nhà năm 2012 và lấn đất của ông bà. Đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bị đơn.

Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông T và bà V trình bày quan điểm tranh luận: Đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bị đơn vì những lý do sau: Bị đơn cho rằng thỏa thuận bán quyền sử dụng đất cho nguyên đơn là 4m phía trước và ngang phía sau là 3,6m nhưng không có chứng cứ chứng minh. Theo Giấy phép tạm sử dụng nền nhà và Giấy phép xây dựng cấp cho ông T thể hiện diện tích là 32m2. Tờ kê khai năm 1999 ông T cũng kê khai là 32m2, thể hiện nhà ông T là 4m ngang x 8m chiều dài mới tròn số 32m2. Năm 2004, Ủy ban nhân dân Quận X cấp chủ quyền cho ông T cũng ghi nhận là 4m ngang kéo dài xuống tận bờ kênh. Phần phía sau nhà giá bờ kênh nhà nước quy hoạch nên ông M không có quyền bán hay không bán. Ông T là người sử dụng phần đất phía sau giáp bờ kênh hợp pháp, ngay tình, ông M lấn chiếm phần đất mà ông T đang sử dụng hợp pháp, ngay tình nên đề nghị bác kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án cho đến thời điểm kết thúc phần tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm trước khi nghị án, những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng và những người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Kháng cáo của bị đơn là có cơ sở, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo, sửa án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa,

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Về hình thức: Đơn kháng cáo của bị đơn nộp và đã đóng tạm ứng án phí phúc thẩm trong thời hạn quy định nên được chấp nhận.

Về nội dung kháng cáo: Ông M yêu cầu xét xử phúc thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy:

Xét đơn đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở do ông T lập ngày 18/11/2003 được Văn phòng Đăng ký Quyền sử dụng đất Quận X sao lục (BL110) thể hiện phần cuối trang 1 có nội dung do ông T ghi bằng chữ viết tay như sau: “Năm 1999 do sơ xuất nên tôi chỉ đo ước chừng nên diện tích bị chênh lệch. Thực tế là đúng với bản vẽ năm 2003”. Theo bản vẽ sơ đồ nhà đất để cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở ngày 08/10/2003 do Liên hiệp KHCN Địa chất và Khoáng sản (GEMINTEC) thực hiện theo yêu cầu của ông Ngô Xuân T (BL 116 - do Văn phòng Đăng ký QSDĐ Quận X sao lục) thể hiện phần đất thuộc phía trước nhà ông T giáp đường TH có chiều ngang là 4,48m, phần đất chiều ngang phía sau nhà ông T nằm trong phần diện tích được công nhận là 4,07m, phần đất không được công nhận có chiều ngang phía giáp bờ kênh là 3,39m. Các số liệu vừa nêu của bản vẽ này trùng khớp số liệu tương ứng của sơ đồ nhà đất thể hiện trong Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số hồ sơ gốc 03146/2004 do Ủy ban nhân dân Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 15/03/2004 cho ông Ngô Xuân T và bà Đinh Thị V. Vậy, phần đất phía sau nhà ông T giáp bờ kênh có chiều ngang là 3,39m được ông T công nhận là đo vẽ đúng thực tế như ông T đã viết tại đơn đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở ngày 18/11/2003.

Xét Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở do Ủy ban nhân dân Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 15/03/2004 cho ông T và bà Vy, thể hiện: Phần đất phía sau nhà ông T, bà V giáp bờ kênh có chiều ngang là 3,39m nằm trong phần diện tích không được công nhận quyền sử dụng đất, ông T và bà V được sử dụng có thời gian, khi thực hiện giải tỏa, điều chỉnh sẽ xử lý theo quy định. Đối chiếu với Bản vẽ sơ đồ nhà, đất ở do Công ty Cổ phần DN lập ngày 23/02/2012 theo yêu cầu của ông Ngô Xuân T cho thấy: Phần đất sau cùng nhà ông T đang thực tế sử dụng có chiều ngang là 3,6m. Theo Bản đồ Hiện trạng vị trí – áp ranh do Trung tâm Đo đạc Bản Đồ thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh lập ngày 29/09/2017 thể hiện: Phần đất phía sau giáp Kinh Đ của nhà ông T có chiều ngang là 3,63m thực tế sử dụng là lấn qua ranh thuộc quyền sử dụng đất của nhà ông M, bà T1 đã được cấp theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số CH01154 do UBND Quận X cấp ngày 02/11/2011.

Vậy, thực tế là ông T, bà V đang sử dụng phần diện tích vượt quá phần diện tích ông bà được sử dụng có thời gian đã được ghi nhận tại Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở do Ủy ban nhân dân Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 15/03/2004, do đó việc ông T khởi kiện yêu cầu ông M trả đất bị lấn chiếm là không có căn cứ, kháng cáo của bị đơn là có cơ sở nên được chấp nhận.

Bản án sơ thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn khi dựa trên bản vẽ do Trung tâm đo đạc bản đồ Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh vẽ vào ngày 24/12/2012 lập trên cơ sở hướng dẫn của đương sự mà không căn cứ vào Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở đã cấp cho nguyên đơn, đồng thời bản án sơ thẩm nhận định “theo giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở năm 2004 của ông T, bà V thì phần cuối nhà có bề ngang là 4,07m” để cho rằng “ranh đất của 2 nhà là đường thẳng từ trước ra sau phần đất kéo dài ra bờ kênh” nên chiều ngang của phần đất nhà ông T đang sử dụng bị nhà ông M lấn chiếm là thiếu căn cứ. Phân tích và đề nghị tại phiên tòa của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về việc sửa bản án sơ thẩm là có căn cứ pháp luật. Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bị đơn, sửa bản án sơ thẩm: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn do yêu cầu không có căn cứ.

Do sửa án sơ thẩm nên án phí dân sự sơ thẩm được tính lại như sau: Nguyên đơn phải chịu toàn bộ án phí sơ thẩm do yêu cầu không được chấp nhận. Nguyên đơn tự chịu các chi phi thực hiện bản vẽ hiện trạng, vị trí và áp ranh do Trung tâm đo đạc bản đồ Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh vẽ vào ngày 24/12/2012 và chi phí thẩm định tại chỗ do thực hiện theo yêu cầu của nguyên đơn.

Đối với phần chi phí hiện bản vẽ hiện trạng, vị trí và áp ranh do Trung tâm đo đạc bản đồ Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh vẽ vào ngày 29/09/2017 do phía bị đơn tự nguyện chịu nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

Án phí phúc thẩm: Do sửa bản án sơ thẩm nên đương sự kháng cáo không phải chịu, ông M được nhận lại tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Khoản 2 Điều 148, Điều 271, 272, 273, 276, Khoản 2 Điều 308, Khoản 2 Điều 309 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

- Pháp lệnh án phí và lệ phí tòa án;

1. Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Ngọc M.

2. Sửa Bản án sơ thẩm số 367/2016/DSST ngày 23/9/2016 của Tòa án nhân dân Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh.

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Án phí dân sự sơ thẩm ông T phải chịu là 10.300.000đ (Mười triệu ba trăm ngàn đồng), được trừ vào tạm ứng án phí ông T đã nộp là 875.000đ (Tám trăm bảy mươi lăm ngàn đồng) theo Biên lai thu số 01835 ngày 04/4/2012 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận X, ông T nộp tiếp số tiền còn lại cho đủ án phí phải nộp.

Ông Ngô Xuân T phải chịu các khoản chi phí đo đạc lập bản vẽ, định giá và thẩm định tại chỗ tại giai đoạn sơ thẩm, được trừ vào tạm ứng chi phí ông T đã nộp, ông T đã thực hiện xong các chi phí tố tụng.

Bị đơn tự nguyện nộp chi phí lập bản vẽ hiện trạng, vị trí và áp ranh tại giai đoạn xét xử phúc thẩm, trừ vào tạm ứng chi phí đã nộp, bị đơn đã thực hiện xong.

3. Án phí dân sự phúc thẩm: Đương sự kháng cáo không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, được nhận lại 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí theo biên lai số 0001934 ngày 03/10/2016 của Chi cục Thi hành án Dân sự Quận X.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

329
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 1029/2017/DS-PT ngày 13/11/2017 về tranh chấp ranh đất và hủy giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở

Số hiệu:1029/2017/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 13/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về