Bản án 09/2019/HNGĐ-ST ngày 10/05/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM ĐẢO, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 09/2019/HNGĐ-ST NGÀY 10/05/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 10 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tam Đảo xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 10/2019/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 01 năm 2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 3 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Lưu Thị Ch, sinh năm 1979; địa chỉ: Thôn L, xã M, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc, có mặt.

Bị đơn: Anh Lưu Văn Q, sinh năm 1985; địa chỉ: Thôn Ph, xã M, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và trong quá trình tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn chị Lưu Thị Ch trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Lưu Văn Q kết hôn ngày 25/9/2004, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc. Sau khi kết hôn chị về sống chung cùng gia đình anh Q khoảng 06 tháng thì vợ chồng ra ở riêng. Quá trình chung sống, ban đầu hòa thuận hạnh phúc đến năm 2010 phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, anh chị nhiều lần cùng nhau dàn xếp nhưng không được cải thiện, từ năm 2012 anh chị sống ly thân, không ai quan tâm hay có trách nhiệm gì đến nhau. Chị xác định tình cảm không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Q.

Về quan hệ giao nuôi con chung: Chị xác định vợ chồng có 01 con chung là Lưu Xuân Kh, sinh ngày 22/12/2005 hiện đang ở cùng chị. Ly hôn, chị đề nghị được nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con.

Về quan hệ tài sản: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Lưu Văn Q: Tòa án đã làm các thủ tục triệu tập hợp lệ mà anh Q vẫn vắng mặt không có lý do.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; nguyên đơn thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, bị đơn không thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, cho chị Lưu Thị Ch ly hôn anh Lưu Văn Q, giao cho chị Ch tiếp tục nuôi dưỡng con chung, anh Q không phải cấp dưỡng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Chị Lưu Thị Ch có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Lưu Văn Q; anh Q có nơi cư trú tại huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc. Do vậy, xác định đây là tranh chấp hôn nhân và gia đình theo quy định tại Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ đối với anh Lưu Văn Q, mặc dù anh Q có mặt tại địa phương và biết việc chị Ch có đơn xin ly hôn nhưng anh Q cố tình gây khó khăn, không đến Tòa án để làm việc. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiếp tục đưa vụ án ra xét xử.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Lưu Thị Ch và anh Lưu Văn Q kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc, đây là cuộc hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống, do bất đồng quan điểm dẫn đến vợ chồng mâu thuẫn, anh chị sống ly thân từ năm 2012 đến nay không ai quan tâm hay có trách nhiệm gì đến nhau. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập nhiều lần, mặc dù anh Q biết việc chị Ch có đơn xin ly hôn nhưng không hợp tác và không đến Tòa án để làm việc. Qua xác minh tại địa phương và gia đình, thể hiện: Từ năm 2012 chị Ch và anh Q sống ly thân, mỗi người ở một nơi, không ai quan tâm hay có trách nhiệm gì đến nhau, anh Q biết việc chị Ch có đơn xin ly hôn nhưng không đến Tòa án để làm việc. Điều đó, khẳng định anh Q không có thiện trí hàn gắn tình cảm vợ chồng, hôn nhân của chị Ch và anh Q đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu của chị Ch, cho chị Ch ly hôn anh Q là phù hợp.

[3]. Về quan hệ giao nuôi con chung: Chị Ch xác định vợ chồng có 01 con chung là Lưu Xuân Kh, sinh ngày 22/12/2005 hiện đang ở cùng chị. Ly hôn, chị Ch đề nghị được nuôi con chung, không yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con, cháu Kh có nguyện vọng được ở với chị Ch.

Xét thấy, nguyện vọng nuôi con của chị Ch là hoàn toàn tự nguyện, từ khi anh chị sống ly thân chị Ch là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu Kh, cháu Kh phát triển bình thường. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của cháu Kh, cần giao cháu Kh cho chị Ch trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp pháp luật và quan điểm của cháu Kh.

[4]. Về quan hệ tài sản: Chị Ch không yêu cầu Tòa án giải quyết, đồng thời quá trình giải quyết vụ án anh Q vắng mặt nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này mà sẽ xem xét giải quyết bằng một vụ án khác khi có yêu cầu của đương sự.

[5]. Về án phí: Chị Lưu Thị Ch phải nộp án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, xử:

1. Cho chị Lưu Thị Ch được ly hôn anh Lưu Văn Q.

2. Giao cho chị Lưu Thị Ch tiếp tục nuôi dưỡng cháu Lưu Xuân Kh, sinh ngày 22/12/2005. Anh Q không phải cấp dưỡng nuôi con; không ai được cản trở việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung.

Các đương sự có quyền yêu cầu về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn và yêu cầu về cấp dưỡng.

3. Chị Lưu Thị Ch phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp tại Biên lai thu số: 0001013 ngày 14 tháng 01 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tam Đảo, chị Ch đã nộp đủ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

4. Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2019/HNGĐ-ST ngày 10/05/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:09/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Đảo - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về