Bản án 09/2019/DS-ST ngày 09/10/2019 về kiện tranh chấp hợp đồng tín dụng

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ - TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 09/2019/DS-ST NGÀY 09/10/2019 VỀ KIỆN TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 09 tháng 10 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 17/2019/TLST-DS ngày 21 tháng 6 năm 2019 về tranh chấp hợp đồng tín dụng theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2019/QĐXXST-DS ngày 05 tháng 9 năm 2019, Quyết định hoãn phiên tòa số 22/2019/QĐST-DS ngày 24 tháng 9 năm 2019, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Ngân hàng V.

Địa chỉ trụ sở: Số 89 L, phường L, quận Đ, thành phố Hà Nội.

Đại diện theo pháp luật: Ông Ngô Chí D - Chức vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị.

Đại diện theo ủy quyền: Ông Phạm Tuấn A - Chức vụ: Phó Giám đốc Trung tâm pháp luật ngân hàng SME và cá nhân (theo Văn bản ủy quyền số 11/2018/UQ-HĐQT ngày 02/03/2018).

Người được ông Phạm Tuấn A ủy quyền lại (Theo Văn bản ủy quyền số 2974/2019/UQ-VPB ngày 18/4/2019):

1. Ông Trần Tuấn A1 – Chức vụ: Trưởng bộ phận Xử lý nợ V AMC.

2. Bà Bùi Thị Th – Chức vụ: Cán bộ Xử lý nợ V AMC.

3. Bà Hoàng Thị Thu Tr – Chức vụ: Cán bộ Xử lý nợ V AMC.

4. Ông Mai Đắc N - Chức vụ: Chuyên viên xử lý nợ (theo Văn bản ủy quyền số 5248/2019/UQ-VPB ngày 01/7/2019).

* Bị đơn: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1989.

Địa chỉ: Thôn 4, xã Phù Vân, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.

(Phiên tòa có mặt ông Nghị, anh H vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện xin ly hôn, các lời khai của các đương sự và các tài liệu chứng cứ được thu thập trong hồ sơ vụ án thì nội dung vụ án như sau:

Ngày 24/01/2018 anh Nguyễn Văn H vay của Ngân hàng thương mại cổ phần V, chi nhánh Hà Nội số tiền 50.000.000đ theo giấy đăng ký kiêm hợp đồng cho vay không tài sản bảo đảm mở và sử dụng tài khoản thanh toán thẻ ghi nợ và dịch vụ ngân hàng điện tử (còn gọi là Hợp đồng tín chấp số LD1803000218 ngày 30/01/2018). Thời hạn vay 36 tháng, thời hạn trả nợ chia làm 36 kỳ trả nợ. Kỳ trả nợ gốc và lãi đầu tiên vào ngày 21/02/2018, gốc và lãi trả theo phương thức niên kim đều. Mục đích vay tiêu dùng, lãi suất 28/%/năm tính từ ngày giải ngân 30/01/2018, khoản vay không có tài sản bảo đảm. Sau khi vay anh H đã trả được 855 đồng: trong đó gồm tiền gốc 4 đồng, lãi 851 đồng. Đến ngày 21/02/2018 anh Nguyễn Văn H vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên V chuyển toàn bộ khoản tiền vay trong hạn sang nợ quá hạn. Nay V yêu cầu Tòa án buộc anh Nguyễn Văn H phải trả cho Ngân hàng số tiền gốc và lãi tạm tính đến ngày 09/10/2019 là 88.108.131 đồng và tiếp tục phải trả lãi tính từ ngày 09/10/2019 cho đến khi thực hiện xong nghĩa vụ trả nợ cho V.

Đối với bị đơn: Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần đến nơi đăng ký hộ khẩu thường trú nhưng anh H vẫn vắng mặt không có lý do và cũng không có văn bản trình bày về nội dung liên quan đến việc vay nợ V.

Tại phiên tòa nguyên đơn giữ nguyên toàn bộ yêu cầu khởi kiện chỉ thay đổi về tiền lãi tính đến ngày xét xử sơ thẩm và yêu cầu anh Nguyễn Văn H phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền gốc là 49.999.996 đồng, lãi: 34.914.558 đồng, phạt chậm trả lãi: 3.193.577 đồng. Tổng cộng là 88.108.131 đồng.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử (HĐXX), Thư ký:

- Việc thụ lý vụ án đúng thẩm quyền, xác định đúng tư cách của những người tham gia tố tụng, việc thu thập chứng cứ đúng theo quy định của pháp luật. Tuân thủ đúng thời hạn chuẩn bị xét xử. Tại phiên tòa HĐXX, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

- Việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi Tòa thụ lý cho đến trước thời điểm HĐXX nghị án. Đại diện theo ủy quyền lại của nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên vi phạm khoản 16, Điều 70 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Sau khi phân tích các tài liệu có trong hồ sơ vụ án xem xét nguyện vọng của các đương sự tại phiên tòa. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị HĐXX xem xét QUYẾT ĐỊNH

+ Căn cứ Điều 26, 35, 39, 147, 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 463, 464, 465, 466, 468 Bộ luật dân sự năm 2015; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội; Nghị quyết số 326/2016/NQ-QH ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

+ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của V. Buộc anh Nguyễn Văn H phải có trách nhiệm thanh toán số tiền gốc và lãi cho V theo quy định của pháp luật.

+ Án phí sơ thẩm: Anh Nguyễn Văn H phải nộp theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà. Sau khi thảo luận và nghị án. Hội đồng xét xử (HĐXX), thấy:

[1] Về tố tụng:

* Về thẩm quyền: Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý đã thực hiện thụ lý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

* Về việc xét xử vắng mặt đối với bị đơn: Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tống đạt hợp lệ giấy triệu tập, thông báo phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa, thông báo mở lại phiên tòa đến địa chỉ nơi đăng ký nhân khẩu thường trú của bị đơn nhưng bị đơn vẫn cố ý vắng mặt không chấp hành bất kỳ buổi làm việc nào. Vậy căn cứ Điều 227 và 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn là đúng quy định.

[2] Về nội dung:

Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Hội đồng xét xử thấy: Đối với giấy đăng ký hợp đồng cho vay không tài sản bảo đảm, mở và sử dụng tài khoản thanh toán, thẻ ghi nợ và dịch vụ Ngân hàng điện tử giữa anh Nguyễn Văn H và V vào ngày 24/01/2018 với số tiền nợ gốc 50.000.000đ, thời hạn vay 36 tháng, mục đích vay tiêu dùng (còn gọi là Hợp đồng tín chấp số LD1803000218 ngày 30/01/2018), lãi suất 28%/năm thời hạn thanh toán được chia thành 36 kỳ tương ứng 36 tháng là Hợp đồng vay tài sản. Hợp đồng này giữa anh H ký kết với V là hoàn toàn tự nguyện. Các bên tham gia hợp đồng có đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự, mục đích và nội dung các điều khoản trong hợp đồng là không vi phạm điều cấm, không trái pháp luật và đạo đức xã hội, hình thức hợp đồng thực hiện bằng văn bản. Căn cứ Điều 117, 119, 401, 463 của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì hợp đồng giữa V và anh Nguyễn Văn H phát sinh hiệu lực kể từ ngày ký hợp đồng (24/01/2018).

Căn cứ khoản 2 Điều 3, khoản 3 Điều 90, khoản 2 Điều 91 của Luật Các tổ chức Tín dụng năm 2010 và khoản 1, khoản 4 Điều 13 và Điều 20 Thông tư số 39/2016/TTNHNN ngày 30/12/2016 quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng có hiệu lực ngày 15/3/2017 thì lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng giữa Nguyễn Văn H và V là hoàn toàn phù hợp với pháp luật. Do đó Hợp đồng vay tài sản ký kết giữa V và Nguyễn Văn H có hiệu lực pháp luật và là cơ sở pháp lý buộc các bên phải thực hiện. Trong quá trình thực hiện hợp đồng V đã chuyển đủ 50.000.000đ vào tài khoản của Nguyễn Văn H. Anh H đã thực hiện nghĩa vụ thanh toán theo kỳ trả gốc và lãi là 855 đồng, trong đó tiền gốc 4 đồng, lãi là 851 đồng. Thời điểm phát sinh tranh chấp từ 21/02/2018, do đó V đã chuyển nợ quá hạn đối với anh H từ ngày 21/02/2018 đến nay trên số dư nợ gốc là 49.999.996 đồng phù hợp với quy định với mức lãi suất 150% so với lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng, tiền lãi chậm trả theo lãi suất giữa Ngân hàng và anh H thỏa thuận đã tính không vượt quá 10%/ năm tính trên số dư lãi chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả là phù hợp với quy định tại Điều 13 Luật Các tổ chức Tín dụng năm 2010. Do đó yêu cầu khởi kiện của V buộc anh Nguyễn Văn H phải trả toàn bộ gốc và lãi cho V theo hợp đồng vay tín chấp số: LD1803000218 ngày 30/01/2018 tính đến ngày 09/10/2019 là 88.108.131 đồng, trong đó nợ gốc là 49.999.996 đồng, lãi quá hạn là 34..914.558 đồng và phạt chậm trả lãi là 3.193.577 đồng có căn cứ chấp nhận.

[3] Về yêu cầu của V đòi anh Nguyễn Văn H phải tiếp tục trả lãi quá hạn theo lãi suất đã thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong các khoản nợ là phù hợp với quy định tại Điều 13 của Luật Các tổ chức Tín dụng năm 2010 và hướng dẫn tại Điều 13 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP Tòa án nhân dân tối cao ngày 11/01/2019 hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất…nên được HĐXX chấp nhận.

[4] Về án phí: Căn cứ quy định của pháp luật anh Nguyễn Văn H phải nộp toàn bộ án phí tương ứng với số tiền phải trả tại thời điểm xét xử sơ thẩm. Nguyên đơn được chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện nên được hoàn lại tất cả tiền tạm ứng án phí đã nộp.

[7] Về quyền kháng cáo: Các đương sự thực hiện theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 26, khoản 1 Điều 35, Điều 39, Điều 92, Điều 144, Điều 146, Điều 147 và các Điều 227, 228, 271, 273, 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Căn cứ các Điều 117, 119, 401 và 463 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

- Căn cứ khoản 2 Điều 3, khoản 3 Điều 90, khoản 2 Điều 91 của Luật Các tổ chức Tín dụng năm 2010.

- Căn cứ khoản 1, khoản 4 Điều 13 và Điều 20 Thông tư số 39/2016/TTNHNN ngày 30/12/2016 quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng có hiệu lực ngày 15/3/2017.

- Áp dụng Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội.

 - Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1/ Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của V: Buộc anh Nguyễn Văn H phải trả cho V số tiền tính đến ngày 09/10/2019 là 88.108.131 đồng (tám mươi tám triệu một trăm linh tám nghìn một trăm ba mươi mốt đồng) trong đó 49.999.996 đồng (bốn mươi chín triệu chín trăm chín mươi chín nghìn chín trăm chín mươi sáu đồng) tiền gốc và lãi quá hạn phải trả là 34.914.558 đồng (ba mươi tư triệu chín trăm mười bốn nghìn năm trăm lăm mươi tám đồng), phạt chậm trả lãi là 3.193.577 đồng (ba triệu một trăm chín mươi ba nghìn năm trăm bảy mươi bảy đồng).

2/ Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất nợ quá hạn các bên thỏa thuận trong hợp đồng vay tín chấp số LD1803000218 ngày 30/01/2018.

3/ Án phí dân sự sơ thẩm: Anh Nguyễn Văn H phải nộp 4.405.407 đồng làm tròn là 4.405.000 đồng (bốn triệu bốn trăm linh năm nghìn đồng). Trả lại V toàn bộ tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý là 1.950.000đ (một triệu chín trăm năm mươi năm nghìn) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí AA/2015/0002134 ngày 21/6/2019.

Án xử công khai sơ thẩm, nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án theo quy định của pháp luật

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

286
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2019/DS-ST ngày 09/10/2019 về kiện tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:09/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 09/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về