Bản án 09/2018/HS-ST ngày 13/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TL, TỈNH HN

BẢN ÁN 09/2018/HS-ST NGÀY 13/03/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 3 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện TL, tỉnh HN, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý 06/2018/TLST-HS ngày 07 tháng 02 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2018/QĐXXST-HS ngày 28/02/2018, đối với bị cáo:

+ Vũ Văn T1 - sinh năm 1991; nơi ĐKHKTT: Thôn CN, xã TH1, huyện TL, tỉnh HN; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông (Không xác định được) và bà Trần Thị M1; có vợ Nguyễn Thị H1 và 02 con, lớn sinh năm 2014, nhỏ sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 21/11/2017 đến ngày 29/11/2017 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh HN, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 21/11/2017, tại đường liên thôn thuộc thôn CT, xã LS, huyện TL, tỉnh HN; tổ công tác của Công an huyện TL, tỉnh HN phối hợp với Ban Công an xã LS tổ chức tuần tra, kiểm soát thì phát hiện Vũ Văn T1 có hành vi cất giữ trái phép 01 gói giấy bạc màu trắng, bên trong có chất bột màu trắng dạng cục (nghi là Heroine) để ở vị trí kẹp giữa lớp nilon bên ngoài và vỏ bao thuốc lá Thăng Long, được để bên trong túi quần trước bên trái của Vũ Văn T1 đang mặc. Tổ công tác đã đưa T1 và tang vật về trụ sở UBND xã LS lập biên bản.

* Tài sản, vật chứng thu giữ khi bắt quả tang gồm:

- Thu tại túi quần trước bên trái của Vũ Văn T1 đang mặc 01 gói giấy bạc màu trắng, bên trong có chất bột màu trắng dạng cục (nghi là Heroine) để ở vị trí kẹp giữa lớp nilon bên ngoài và vỏ bao thuốc lá Thăng Long, được niêm phong trong phong bì kí hiệu QT01.

- Thu trong túi áo ngực bên trái Vũ Văn T1 đang mặc số tiền 500.000 đồng.

- Thu trong túi áo ngực bên phải Vũ Văn T1 đang mặc đang mặc số tiền 1.500.000 đồng.

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda màu xanh đã cũ, BKS: 90H3-4777. Khám xét khẩn cấp nơi ở của Vũ Văn T1, Cơ quan điều tra không thu giữ gì. Tại Cơ quan điều tra, Vũ Văn T1 khai nhận: T1 là đối tượng nghiện ma túy.Khoảng 18 giờ 45 phút ngày 21/11/2017, T1 đang ở nhà thì nhận được tin nhắn điện thoại của bạn

nghiện tên TA ở thôn CT 1, xã LS, huyện TL, tỉnh HN, với nội dung: “Tao có hai trăm, đang ở cây xăng Kim Cường, mày lên đón tao”. Hiểu ý TA rủ đi mua ma túy về cùng sử dụng, nhưng do lúc này không có xe máy nên T1 gọi điện thoại cho Nguyễn Văn K1 ở cùng thôn với T1 và nói: “Xuống nhà anh chở anh đi lấy tiền rồi anh gửi mày”. Nghe vậy, K1 sử dụng xe mô tô BKS: 90H3- 4777 đến nhà chở T1 đi. T1 bảo K1 chở đến một quán nước ven đường Quốc lộ 1A gần nhà thờ thôn Lác Nội, xã TH, huyện TL, tỉnh HN. T1 bảo K1 ngồi chờ tại đây rồi mượn xe của K1 đi đến gặp TA tại khu vực cống gần quán Karaoke Galaxy thuộc địa phận thôn LN, xã TH. Tại đây, TA bảo T1 đưa điện thoại cho TA. TA lấy điện thoại gọi cho một ai đó và nói: “Anh cắt cho em bốn trăm”, nghe thấy vậy thì T1 hiểu là TA đang hỏi mua ma túy. Sau đó, TA cầm điện thoại của T1 và bảo T1 đứng đợi để đi mua ma túy. Lúc này T1 biết TA chỉ có 200.000 đồng mà hỏi mua ma túy với giá 400.000 đồng, nên T1 hiểu TA cầm điện thoại của mình đi để cầm cố lấy tiền góp với TA mua ma túy về sử dụng, nên T1 đồng ý và đứng đợi. Một lúc sau, TA quay lại nói với T1: “Tao cắm điện thoại của mày với 200.000 nghìn của tao mua được một gói ma túy rồi”. Lúc này, T1 có việc cần gọi điện thoại nên nói với TA: “Anh xem xoay ở đâu được tiền để chuộc máy cho em”, thì TA bảo T1 chở TA về nhà vay tiền để chuộc điện thoại. Khi đi đến đường liên thôn thuộc địa phận thôn CT, xã LS, huyện TL, TA bảo T1 dừng xe lại rồi xuống xe lấy gói ma túy vừa mua được ra và cắt một phần ma túy bỏ vào vị trí kẹp giữa túi nilon bên ngoài với vỏ bao thuốc là Thăng Long đưa cho T1. T1 hiểu đây là phần ma túy của mình đã góp để mua bằng số tiền TA cầm cố chiếc điện thoại của T1, nên T1 cầm số ma túy TA đưa, cất vào túi quần bên trái T1 đang mặc. Sau đó, TA bảo T1 đứng đợi để mình đi vay tiền chuộc điện thoại cho T1. Trong lúc T1 đứng đợi TA thì bị lực lượng Công an huyện TL kiểm tra, phát hiện và bắt quả tang.

Tại bản kết luận giám định số 205/PC54-MT ngày 24/11/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh HN kết luận: “Chất bột màu trắng dạng cục trong mẫu kí hiệu QT01 gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, trọng lượng: 0,212g

(Không phảy hai trăm mười hai gam). Heroine là chất ma túy nằm trong Danh mục I, STT 20, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ.”

Quá trình điều tra Nguyễn Văn T1 khai nhận: Số ma túy thu giữ trên người T1 là do T1 đưa chiếc điện thoại nhãn hiệu FPT X9 màu hồng của T1 cho bạn nghiện tên là TA khoảng 25-28 tuổi, trú tại thôn CT 1, xã LS, huyện TL, tỉnh HN để TA mang đi cầm cố lấy tiền mua ma túy sau đó về chia cho T1. Cơ quan CSĐT

- Công an huyện TL đã xác minh tại xã LS, huyện TL, tỉnh HN không có thôn CT 1 mà chỉ có thôn CT; tại thôn CT không có người nào tên là TA. Tuy nhiên, Công an xã LS cung cấp tại địa bàn thôn CT1 giáp thôn CT có người tên là Lê TA sinh năm 1992 có đặc điểm như T1 khai báo. Cơ quan điều tra đã tiến hành triệu tập Lê TA để làm rõ. Tại Cơ quan điều tra, TA khai nhận không có quan hệ quen biết gì với Vũ Văn T1 và không thừa nhận việc góp tiền cùng T1 mua ma túy cũng như chia ma túy cho T1. Ngoài lời khai của T1 không còn tài liệu, chứng cứ nào khác; vì vậy Cơ quan CSĐT - Công an huyện TL không có đủ cơ sở để truy tìm chiếc điện thoại FPT X9 của T1 đồng thời không đủ căn cứ xử lý đối với Lê TA.

Bản cáo trạng số 10/CT-VKSTL ngày 07/02/2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện TL đã truy tố Vũ Văn T1 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TL giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Vũ Văn T1 phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Áp dụng khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự - Xử phạt Vũ Văn T1 từ 24 đến 30 tháng tù; miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo; buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy lượng Heroine hoàn lại sau giám định; trả lại cho Vũ Văn T1 số tiền 2.000.000 đồng. Bị cáo T1 đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận đinh như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện TL, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện TL, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà cũng như tại Cơ quan điều tra, Vũ Văn T1 đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như bản cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã thu giữ, bản kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 20 giờ00 phút ngày  21/11/2017, tại đường liên thôn thuộc thôn CT, xã LS, huyện TL, tỉnh HN; tổ công tác của Công an huyện TL, tỉnh HN phối hợp với Ban Công an xã LS bắt quả tang Vũ Văn T1 đang tàng trữ chất ma túy, loại Heroine có trọng lượng 0,212g, với mục đích là để sử dụng cho bản thân.

[3] Hành vi tàng trữ trái phép Heroine của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách của Nhà nước về độc quyền quản lý các chất ma tuý, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương. Bản thân bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử kết luận: Viện kiểm sát nhân dân huyện TL truy tố Vũ Văn T1 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội.

Xét về nhân thân bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy rằng:

Về nhân thân: Bị cáo là người nghiện ma túy, chưa có tiền án, tiền sự.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Qua xem xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo; Hội đồng xét xử xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là người nghiện ma túy, lao động tự do, không có thu nhập ổn định; nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng:

Đối với lượng Heroine hoàn lại sau giám định, là vật cấm tàng trữ, không có giá trị; nay sẽ căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự để tịch thu tiêu huỷ.

Đối với số tiền 2.000.000 đồng là tài sản hợp pháp của T1, không liên quan đến tội phạm; nên sẽ trả lại cho T1.

- Đối với xe mô tô BKS 90H3-4777, kiểu dáng Wave: Quá trình điều tra xác định chiếc xe mô tô trên thuộc quyền sở hữu của Nguyễn Văn K1 Ngày 21/11/2017, Vũ Văn T1 đã nhờ K1 chở T1 đi đến quán nước tại thôn LN, xã TH, huyện TL, tỉnh HN. Sau đó, T1 mượn xe để đi lại và đưa cho TA sử dụng để đi mua ma túy. K1 không biết mục đích của T1 là đi mua ma túy và cũng không biết T1 mượn xe để cùng TA đi mua ma túy. Vì vậy, Cơ quan CSĐT - Công an huyện TL không xem xét trách nhiệm đối với K1 và trả lại cho K1 chiếc xe mô tô trên là phù hợp.

[5] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Vũ Văn T1 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Vũ Văn T1 24 (Hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ là 21/11/2017.

2. Xử lý vật chứng:

- Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ lượng Heroine hoàn lại sau giám định trong phong bì niêm phong số 205/PC54-MT; trả lại cho Vũ Văn T1 số tiền 2.000.000 đồng (Chi tiết vật chứng như trong Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 07/02/2018 giữa Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện TL với Chi cục Thi hành án Dân sự huyện TL; số tiền theo Ủy nhiệm chi chuyển khoản, chuyển tiền điện tử số 03 lập ngày 07/02/2018 tại Kho bạc Nhà nước huyện TL).

3. Án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội - Buộc bị cáo Vũ Văn T1 phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo có mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2018/HS-ST ngày 13/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:09/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Liêm - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về