Bản án 09/2018/HS-ST ngày 02/02/2018 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ ĐỒN, TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 09/2018/HS-ST NGÀY 02/02/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 02 tháng 02 năm 2018, tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:03/2018/ TLST – HS, ngày 17 tháng 01 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2018/ QĐXXST – HS ngày 19 tháng 01 năm 2018 đối với bị cáo:

Ngọc Văn C (tên gọi khác không), sinh ngày 06 tháng 02 năm 1984. Nơi ĐKNKTT và chỗ ở hiện nay tại: Thôn B, thị trấn B, huyện C, tỉnh Bắc Kạn. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 06/12; Dân tộc: Tày; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Ngọc Văn T và con bà Nguyễn Thị K. Vợ: Lành Thị Thuý K; Con: Có 02 con, con lớn sinh năm 2006, con nhỏ sinhnăm 2014. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày05/10/2017 cho đến nay, có mặt tại phiên toà.

* Người có quyền lợi liên quan: Chị Lành Thị Thúy K - sinh năm 1987; Trú tại: Thôn B, thị trấn B, huyện C, tỉnh Bắc Kạn. (Có mặt)

* Người làm chứng:

1. Anh Chu Nhật L – sinh năm 1996; Trú tại: Thôn B, xã Q, huyện C, tỉnh Bắc Kạn. (Vắng mặt)

2. Anh Lưu Ngọc A – sinh năm 1994; Trú tại: Thôn N, xã B, huyện C, tỉnh Bắc Kạn. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 05/10/2017, tổ công tác Đội cảnh sát điều tra tộiphạm về kinh tế - ma túy Công an huyện Chợ Đồn đang làm nhiệm vụ tại khu vực nghĩa địa thuộc tổ C, thị trấn B, huyện C, tỉnh Bắc Kạn, phát hiện Lưu Ngọc A và Chu Nhật L đang có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Qua kiểm tra, tổ công tác phát hiện thu giữ trên người của Chu Nhật L 01 (một) gói chất bột màu trắng (nghi là hêrôin) và 01 (Một) chiếc xilanh nhựa màu trắng loại 03ml/cc; và thu giữ của Lưu Ngọc A 01 (một) xi lanh nhựa loại 03ml/cc.

Tại cơ quan điều tra, Chu Nhật L và Lưu Ngọc A khai nhận gói chất bột màu trắng cơ quan điều tra đã thu giữ là hêrôin do L và A vừa mua với Ngọc Văn C tại đường rẽ vào mỏ đá thuộc tổ C, thị trấn B, huyện C, tỉnh Bắc Kạn.

Ngày 05/10/2017 Cơ quan CSĐT Công an huyện Chợ Đồn thi hành Lệnh khám xét khẩn cấp đối với Ngọc Văn C, cơ quan điều tra đã phát hiện tạm giữ được trên người của Ngọc Văn C: Số tiền 400.000đ (bốn trăm nghìn đồng) tiền ngân hàng Nhà nước Việt Nam; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu FPT vỏ bằng nhựa, màu đen, trong điện thoại lắp 01 (một) sim và 01 (một) thẻ nhớ 1GB.

Tại cơ quan điều tra, Ngọc Văn C khai nhận: Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 05/10/2017, C đang ngồi ở nhà tại thôn B, thị trấn B, huyện C, Bắc Kạn thì Lưu Ngọc A gọi điện thoại hỏi mua 03 (ba) gói ma tuý, C đồng ý. Khoảng 10 phút sau, C gọi điện thoại lại cho A hỏi A đang ở đâu thì A trả lời là đang ở ngã ba đường rẽ vào mỏ đá thuộc tổ C, thị trấn B, huyện C, tỉnh Bắc Kạn nhưng Á không có xe nên nhờ C đem ma tuý đến bán cho A. Sau đó C điều khiển chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, biển kiểm soát 97B1 - 217.07 đến chỗ hẹn để bán ma tuý. Đến nơi, C gặp A và L, L đưa cho C 300.000đ (ba trăm nghìn đồng), trong đó có 100.000đ (một trăm nghìn đồng) của A góp vào để mua ma tuý, C nhận tiền từ L rồi đưa cho L 03 (ba) gói ma tuý. Bán ma tuý xong thì Ngọc Văn C quay về nhà.

Tại bản Kết luận giám định số 128/KTHS-MT ngày 18/10/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu A1 (thu giữ của Chu Nhật L) gửi giám định có trọng lượng (khối lượng) là0,025g (không phẩy không hai lăm gam), là chất ma túy, loại Hêrôin.

Tại bản cáo trạng số: 01/ KSĐT - MT ngày 16 tháng 01 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn đã truy tố bị cáo Ngọc Văn C về tội "Mua bán trái phép chất ma tuý" theo khoản 1 điều 194/BLHS.Điều 194 có nội dung như sau:

1, Người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

Tại phiên toà: Bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn tham gia phiên toà vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố đối với bị cáo theo cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Ngọc Văn C phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”

- Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999.

- Xử phạt bị cáo Ngọc Văn C từ 24 (Hai mươi tư) tháng đến 30 (Ba mươi) tháng tù giam.

- Về vật chứng: Áp dông Điều 46; Điều 47/BLHS năm 2015; Điều 106/BLTTHS năm 2015:

- Đối với số tiền 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng), trong đó có 300.000đ tiền bán ma túy mà có cần tịch thu để nộp ngân sách nhà nước, số còn lại 100.000đ tiền của bị cáo tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Đối với một điện thoại di động nhãn hiệu FPT, vỏ màu đen, điện thoại đã qua sử dụng, đây là phương tiện dùng vào mục đích phạm tội cho nên cần tịch thu để hóa giá sung ngân sách nhà nước.

- Đối với 02 (Hai) xi lanh nhựa màu trắng loại 03ml/cc đã qua sử dụng và 01 (Một) phong bì ký hiệu T128 chứa mẫu ma túy hoàn trả cần tịch thu để tiêu hủy.

- Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

- Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo biết hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về với gia đình

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Chợ Đồn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Đồn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người có quyền lợi liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Theo các biên bản lời khai của bị cáo, người có quyền lợi liên quan, những người làm chứng và lời khai của bị cáo tại phiên tòa: Khoảng 10 giờ 30 phút ngày05/10/2017 tại ngã ba đường rẽ vào mỏ đá thuộc tổ C, thị trấn B, huyện C, tỉnh Bắc Kạn, Ngọc Văn C gặp Chu Nhật L và đã có hành vi bán trái phép 03 (ba) gói ma tuý với số tiền là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng). Do đó bị cáo Ngọc Văn C đã phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy", tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999.

[3] Xét tính chất hành vi bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, gây mất trật tự trị an ở địa phương, cần xử lý nghiêm bằng pháp luật hình sự, nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

[4] Xét về nhân thân của bị cáo: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.

[5] XÐt tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Tình tiếttăng nặng bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tình tiết giảm nhẹ tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình, cho nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ đó là "Người phạm tội thành khẩn khai báo” được qui định tại điểm p khoản 1 điều 46/BLHS. Do tính chất hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, nên cần phải có thời gian cải tạo đối với bị cáo, mới giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

[6] Vật chứng của vụ án: Trong quá trình điều tra vụ án, cơ quan công an có thu giữ gồm: 01 (một) điện thoại di động FPT màn hình cảm ứng đã bị vỡ, có số IMEI 1 có bốn số cuối 1380, điện thoại đã qua sử dụng, bên trong điện thoại có một sim Viettel và một thẻ nhớ Potevio 1Gb; 02 (hai) xilanh nhựa màu trắng loại 03ml/cc đã qua sử dụng; 01 (một) phong bì ký hiệu T128 chứa mẫu ma túy hoàn trả và 400.000 (bốn trăm nghìn đồng). Hội đồng xét xử xét thấy đối với số tiền400.000đ (bốn trăm nghìn đồng), trong đó có 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền bán ma túy mà có cần tịch thu để nộp ngân sách nhà nước, số còn lại 100.000đ (một trăm nghìn đồng) tiền của bị cáo tạm giữ để đảm bảo thi hành án; đối với một điện thoại di động FPT màn hình cảm ứng đã bị vỡ, có số IMEI 1 có bốn số cuối 1380, điện thoại đã qua sử dụng, bên trong điện thoại có một sim Viettel và một thẻ nhớ Potevio 1Gb đây là phương tiện dùng vào mục đích phạm tội cho nên cần tịch thu để hóa giá sung ngân sách nhà nước; đối với 02 (Hai) xi lanh nhựa màu trắng loại 03ml/cc đã qua sử dụng và 01 (Một) phong bì ký hiệu T128 chứa mẫu ma túy hoàn trả không có giá trị cần tịch thu để tiêu hủy.

[7] Về hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 5 điều 194/ BLHS đó là "Phạt tiền", xét thấy bản thân bị cáo không có thu nhập và không có tài sản riêng có xác nhận của chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú, cho nên không áp dụng hình phạt bổ xung "Phạt tiền" đối với bị cáo.

[8] VÒ nguồn gốc số ma túy trên, bị cáo khai mua với một người đàn ông không rõ tên, địa chỉ tại đường rẽ vào tổ 2b, thị trấn Bằng Lũng, huyện Chợ Đồn nên cơ quan điều tra không có cơ sở để xác minh, làm rõ.

[9] Trong vụ án có Chu Nhật L và Lưu Ngọc A là những người nghiện ma túy đã có hành vi mua trái phép chất ma túy về sử dụng, tuy nhiên trọng lượng chất ma túy chưa đủ mức truy cứu trách nhiệm hình sự, nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Đồn tách hồ sơ ra để xem xét xử lý hành chính sau là đúng quy định của pháp luật.

[10] Đối với chiếc xe mô tô BKS 97 B1 – 217.07 quá trình điều tra cơ quan điều tra xác định chiếc xe trên do chị Lành Thị Thúy K là chủ sở hữu, việc bị cáo Ngọc Văn C mang xe đi bán ma túy, chị Lành Thị Thúy K không biết, vì vậy cơ quan điều tra không thu giữ là đúng quy định.

[11] Về án phí bị cáo phải chịu tiền án phí theo quy định của phỏp luật.

Vỡ các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

* Tuyên bố bị cáo Ngọc Văn C phạm tội: "Mua bán trái phép chất ma tuý".

* Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46/ BLHS.

- Xử phạt bị cáo Ngọc Văn C: 30 (Ba mươi) thỏng tù về tội "Mua bán tráiphép chất ma tuý", thời hạn tù tính từ ngày 05/10/2017.

- Về vật chứng: Áp dụng Điều 46; Điều 47/BLHS năm 2015; Điều 106/BLTTHS năm 2015:

+ Tịch thu số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền bán ma túy mà có để nộp ngân sách nhà nước.

+ Tạm giữ số tiền 100.000đ (một trăm nghìn đồng) tiền của bị cáo để đảm bảo thi hành án.

+ Tịch thu một điện thoại di động FPT màn hình cảm ứng đã bị vỡ, có số IMEI1 có bốn số cuối 1380, điện thoại đã qua sử dụng, bên trong điện thoại có một sim Viettel và một thẻ nhớ Potevio 1Gb để hóa giá sung ngân sách nhà nước.

+ Tịch thu 02 (Hai) xi lanh nhựa màu trắng loại 03ml/cc đã qua sử dụng và 01 (Một) phong bì ký hiệu T128 chứa mẫu ma túy hoàn trả không có giá trị để tiêu hủy.

(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Chợ Đồn với Chi cục thi hành án dân sự huyện Chợ Đồn ngày 29/01/2018)

- Về án phí: Áp dụng điều 136/BLTTHS; Luật án phí, lệ phí Toà án; Nghị quyết 326/2016 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí Tòa án. Bị cáo Ngọc Văn C phải chịu 200.000đ án phí HSST.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, người có quyền lợi liên quan. Bị cáo, người có quyền lợi liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

250
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2018/HS-ST ngày 02/02/2018 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

Số hiệu:09/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Đồn - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về