Bản án 08/2020/HS-ST ngày 09/01/2020 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 08/2020/HS-ST NGÀY 09/01/2020 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 707/2019/TLST-HS, ngày 09/12/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 6177/2019/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Hoàng K (tên gọi khác: không có); giới tính: nam; sinh năm: 1990, tại: Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú và chỗ ở trước khi bị bắt: 330A TTT, Phường Q, Quận Z, Thành phố Hồ Chí Minh; trình độ học vấn: 6/12; nghề nghiệp: sửa xe; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn L - sinh năm: 1953 và bà Huỳnh Thị Hoàng K - sinh năm: 1959; Bị cáo có vợ là Trần Lê Khánh N và có 01 con sinh năm: 2011; Tiền án:

không; Tiền sự: không. Nhân thân: Tại Bản án số 585/2007/HSST ngày 20/6/2007 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt bị cáo 18 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 16/5/2019. (Có mặt tại phiên tòa) - Bị hại: Ông Mai J, sinh năm: 1995;

Quốc tịch: Trung Quốc; Hộ chiếu số: E85421039;

Nơi tạm trú tại Việt Nam: Phòng C17-1-2 Khách sạn MC, đường NLB, phường TP, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt tại phiên tòa) - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Bà Huỳnh Thị Hoàng K, sinh năm: 1959;

Trú tại: 330A TTT, Phường Q, Quận Z, Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt tại phiên tòa)

2/ Anh Võ Hồng Đ, sinh năm: 1981;

Trú tại: 76 Vĩnh H, Phường E, Quận Z, Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 55 phút, ngày 11/01/2019, anh Mai J (quốc tịch Trung Quốc) đang đi bộ trên vỉa hẻ, khi đến trước số 287 BVĐ, Phường R, Quận Z, tay trái kéo vali, tay phải cầm 01 điện thoại di động hiệu Samsung C9 Pro màu đen và bấm xem bản đồ thì bất ngờ bị Nguyễn Hoàng K điều khiển xe gắn máy hiệu Yamaha Luvias màu đỏ, chạy ngược chiều trên vỉa hè, áp sát và giật chiếc điện thoại của anh Mai J rồi tăng ga bỏ chạy vào hẻm 289 BVĐ hướng ra đường KH, Quận Z tẩu thoát. Anh Mai J chạy bộ đuổi theo nhưng không kịp nên được người dân đưa đến Công an Phường 2, Quận Z trình báo sự việc và xác định địa điểm nơi bị cướp giật tài sản.

Đến ngày 06/4/2019, Nguyễn Hoàng K lưu thông xe gắn máy hiệu Yamaha Luvias màu đen, biển số 59C1-015.25 trên địa bàn Phường Q9, quận BT và bị nghi vấn trong vụ cướp giật tài sản trên giao lộ PVC, NHC nên bị Công an Phường Q9, quận BT lập biên bản và tạm giữ chiếc xe gắn máy trên. Qua kiểm tra, phát hiện K dương tính với chất ma túy nên bị Ủy ban nhân dân Phường Q9, quận BT ra Quyết định đưa vào cơ sở Xã hội Thanh thiếu niên 2 để cắt cơn, giải độc. Trong thời gian làm thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thì K bị Cơ quan điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh khởi tố bị can, ra lệnh bắt tạm giam trong vụ Cướp giật tài sản ngày 11/01/2019.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Hoàng K thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nêu trên và khai nhận như sau: Sau khi giật được tài sản của anh Mai J, trên đường tẩu thoát thì K dừng lại tại trước số 78-78A KH, Phường E, Quận Z, Thành phố Hồ Chí Minh để kiểm tra tài sản giật được và biết được tài sản là chiếc điện thoại di động hiệu Samsung C9 Pro màu đen, bị nứt màn hình. K tháo và vứt bỏ 02 sim tại đây rồi mang chiếc điện thoại đến tiệm điện thoại “Đức Thịnh”, địa chỉ số 76 Vĩnh H, Phường E, Quận Z để bán cho anh Võ Hồng Đ được 1.500.000 đồng và K đã tiêu hết số tiền trên.

Về việc gắn biển số trên xe gắn máy khi thực hiện hành vi cướp giật tài sản, do sợ có người nhìn thấy biển số xe nên K đã tháo biển số thật để ở nhà, gắn biển số 59C1-015.25 (K tự khai là nhặt được từ tháng 02/2019), dán lại decal xe để thay đổi đặc điểm của xe và sau đó tiếp tục sử dụng chiếc xe này cho đến khi bị tạm giữ do bị nghi liên quan đến vụ cướp giật tài sản tại quận BT nêu trên.

Cơ quan điều tra đã cho Nguyễn Hoàng K chỉ điểm nơi thực hiện hành vi phạm tội, nơi vứt bỏ 02 sim điện thoại, nơi bán chiếc ĐTDĐ cướp giật nhưng không thu hồi được vật chứng. Đồng thời Cơ quan điều tra cũng cho người làm chứng tên Trương Ngọc Oanh nhận dạng được chính Nguyễn Hoàng K là người vào tối ngày 11/01/2019 đã điều khiển xe gắn máy màu đỏ chạy vào hẻm 289 BVĐ, Quận Z, phía sau có người đàn ông nước ngoài kéo vali chạy đuổi theo và cho người liên quan Võ Hồng Đ nhận dạng được chính Nguyễn Hoàng K là người đã bán chiếc ĐTDĐ Samsung C9 Pro màu đen.

Về tài sản bị chiếm đoạt trong vụ án này là 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung C9 Pro màu đen, đã qua sử dụng (bị nứt màn hình), do bị hại khai nhận mua tại Trung Quốc với giá 3.500 nhân dân tệ (tương đương 11.550.000 Việt Nam đồng). Tại Kết luận định giá tài sản số 1503/KL-HĐĐGTS ngày 14/3/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự đã xác định chiếc điện thoại Samsung C9 Pro màu đen, đã qua sử dụng có trị giá là 4.117.000 Việt Nam đồng. Sau khi chiếm đoạt được chiếc điện thoại thì K đã bán cho anh Võ Hồng Đ tại cửa hàng điện thoại “Đức Thịnh”, sau đó anh Đ đã bán cho khách mua hàng không rõ lai lịch vì không biết đây là tài sản do phạm tội mà có, do đó không thể thu hồi được tài sản để trả lại cho bị hại.

* Về vật chứng thu giữ của Nguyễn Hoàng K:

- 01 chiếc xe gắn máy Yahmaha Luvias, màu đen, gắn biển số (giả) là 59C1-015.25, số khung RLCL44S10BY042838, số máy 44S1-042844 (có biển số thật là 59C1-119.29) do K sử dụng làm phương tiện cướp giật tài sản vào ngày 11/01/2019. Chiếc xe gắn máy này màu sơn ban đầu là màu đỏ đen, có biển số 59C1-119.29 do bà Huỳnh Thị Hoàng K (mẹ ruột K) là chủ sở hữu, mua xe theo hình thức trả góp nên chưa có giấy tờ xe. Bà Kim khai do K không có phương tiện đi lại nên bà có đưa cho K sử dụng và không biết K dùng làm phương tiện phạm tội;

- 01 biển số xe gắn máy 59C1-119.29 do bà Huỳnh Thị Hoàng K giao nộp.

- Riêng biển số 59C1-015.25 qua xác minh là thuộc về xe gắn máy hiệu Honda Dylan do anh Phạm Hoàng Thuyên làm chủ sở hữu từ năm 2010. Sau đó, anh Thuyên đã bán cho người khác, có làm giấy tờ mua bán nhưng không lưu giữ giấy tờ. Quá trình sử dụng xe, anh Thuyên không bị mất biển số.

* Về bồi thường dân sự: Do Bị hại đã xuất cảnh về nước nên Cơ quan điều tra chưa ghi được lấy lời khai để xác định yêu cầu bồi thường cụ thể.

Tại bản Cáo trạng số 506/CT-VKS-P2 ngày 22/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố Nguyễn Hoàng K về tội“Cướp giật tài sản” theo điểm d, khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Hoàng K khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng theo nội dung bản Cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quan điểm truy tố, sau khi luận tội cùng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và đề nghị áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo mức án từ 4 năm đến 5 năm tù. Về vật chứng, đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.

Về dân sự, đề nghị tách yêu cầu bồi thường của người bị hại ra thành một vụ kiện dân sự khác khi người bị hại có yêu cầu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cở sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về nội dung, Hội đồng xét xử đánh giá như sau:

Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng, biên bản thu giữ vật chứng, kết luận định giá cùng các chứng cứ khác có trong hồ sơ.

Đủ cơ sở kết luận: Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 11/01/2019 tại trước số 287 BVĐ, Phường R, Quận Z, Thành phố Hồ Chí Minh, Nguyễn Hoàng K đã lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác của chủ sở hữu là anh Mai J (quốc tịch Trung Quốc), bị cáo đã điều khiển xe gắn máy Yahmaha Luvias biển số 59C1-015.25 (biển số thật là 59C1-119.29), công khai áp sát vào người bị hại, bất ngờ và nhanh chóng thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản là 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung C9 Pro màu đen, sau đó nhanh chóng tẩu thoát. Tài sản do bị cáo chiếm đoạt hiện không thể thu hồi được.

Như vậy có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Hoàng K đã cấu thành tội “Cướp giật tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Hành vi của bị cáo là liều lĩnh táo bạo, rất nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân, gây mất trật tự trị an tại địa phương, bị cáo đã phạm tội đối với du khách nước ngoài, làm ảnh hưởng xấu đến môi trường du lịch và hình ảnh của đất nước Việt Nam. Bị cáo sử dụng xe gắn máy làm phương tiện cướp giật tài sản, trên đường phố nơi đông người tham gia giao thông, đe dọa đến sự an toàn về tính mạng, sức khoẻ của người khác, là thuộc trường hợp dùng thủ đoạn nguy hiểm theo điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Do đó, cáo trạng truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật. Xét cần xử phạt nghiêm đối với bị cáo nhằm răn đe, giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét tại phiên tòa hôm nay, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để giảm cho bị cáo một phần hình phạt.

[3] Đối với anh Võ Hồng Đ là chủ tiệm điện thoại “Đức Thịnh” đã xác nhận có mua của Nguyễn Hoàng K chiếc điện thoại di động Samsung C9 Pro màu đen với số tiền 1.500.000 đồng nhưng không biết đây là tài sản do phạm tội mà có, lời khai của anh Đ phù hợp lời khai của Nguyễn Hoàng K. Sau khi mua thì anh Đ đã bán chiếc điện thoại này nhưng không nhớ bán được bao nhiêu tiền và đã bán cho ai, nên Hội đồng xét xử không xem xét về trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự.

[4] Các vấn đề khác:

* Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 chiếc xe gắn máy Yahmaha Luvias, màu đen, số khung RLCL44S10BY042838, số máy 44S1-042844 và 01 biển số xe gắn máy 59C1- 119.29 do bà Huỳnh Thị Hoàng K (mẹ ruột K) là chủ sở hữu, do bà Kim cho bị cáo mượn xe, không biết K dùng làm phương tiện phạm tội nên cần giao trả lại cho bà Kim;

- Đối với 01 biển số 59C1-015.25 qua xác minh là thuộc về xe gắn máy hiệu Honda Dylan do anh Phạm Hoàng Thuyên làm chủ sở hữu từ năm 2010. Anh Thuyên khai đã bán cho người khác nhưng không rõ lai lịch người mua, xét cần tiếp tục cho đăng báo để tìm chủ sở hữu hợp pháp của biển số này, nếu quá thời hạn vẫn không có ai đến nhận thì tịch thu tiêu hủy.

* Về trách nhiệm dân sự: Do bị hại Mai J (quốc tịch Trung Quốc) đã xuất cảnh về nước nên chưa rõ yêu cầu về dân sự, Hội đồng xét xử xét dành quyền khởi kiện cho ông Mai J trong vụ án dân sự khác khi có yêu cầu.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng K 04 (bốn) năm tù về tội “Cướp giật tài sản”. Thời hạn tù được tính từ ngày 16/5/2019.

- Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

+ Trả lại cho bà Huỳnh Thị Hoàng K: 01 chiếc xe gắn máy Yamaha Luvias, màu đen, số khung RLCL44S10BY042838, số máy 44S1-042844; biển số xe gắn máy 59C1-119.29;

+ Cho đăng trên phương tiện thông tin đại chúng trong thời hạn 06 (sáu) tháng để tìm chủ sở hữu hoặc người quản lý, sử dụng hợp pháp đối với: 01 biển số 59C1-015.25. Nếu quá thời hạn nêu trên mà không có ai đến nhận thì tịch thu tiêu hủy.

(Tang vật theo Quyết định chuyển vật chứng số 237/QĐ-VKS-P2 ngày 25/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh; Biên bản giao nhận tang tài vật số 108/20 ngày 13/12/2019 của Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh).

- Căn cứ khoản 1, 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

- Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được niêm yết hoặc được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2020/HS-ST ngày 09/01/2020 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:08/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về