Bản án 08/2019/HNGĐ-ST ngày 22/10/2019 về tranh chấp nuôi con, cấp dưỡng nuôi con của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BA TƠ, TỈNH QUẢNG NGÃI

BẢN ÁN 08/2019/HNGĐ-ST NGÀY 22/10/2019 VỀ TRANH CHẤP NUÔI CON, CẤP DƯỠNG NUÔI CON CỦA NAM, NỮ CHUNG SỐNG VỚI NHAU NHƯ VỢ CHỒNG MÀ KHÔNG ĐĂNG KÝ KẾT HÔN

Ngày 22 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 40/2019/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 8 năm 2019, về “Tranh chấp về nuôi con, cấp dưỡng nuôi con của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 10 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1986;

Đa chỉ cư trú: Đường N, phường Q, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi.

2. Bị đơn: Anh Phạm Trung L, sinh năm 1983;

Đa chỉ cư trú: Tổ dân phố B, thị trấn B, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi.

Chị T, anh L có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện ghi ngày 13/8/2019 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Nguyễn Thị T trình bày:

Chị T và anh L có tổ chức lễ cưới theo phong tục và tự nguyện chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2010, nhưng đến nay vẫn chưa đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Trong quá trình chung sống do tính tình vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm sống dẫn đến thường xuyên cãi vã, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng không thể hàn gắn được. Chị T và anh L đã sống ly thân từ năm 2018 cho đến nay, hiện tình cảm vợ chồng đã không còn nên chị T yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh L.

- Về con chung: Quá trình sống chung chị T và anh L có 01 người con chung tên là Phạm Uy V, sinh ngày 29/4/2011, nếu ly hôn, chị T yêu cầu được nuôi cháu V và anh L phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000đ (Hai triệu đồng) cho đến khi cháu V đủ 18 tuổi.

- Về tài sản chung: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Chị T trình bày không có nợ tổ chức hay cá nhân nào bên ngoài, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Phạm Trung L trình bày:

Về thời gian sống chung, không đăng ký kết theo quy định của pháp luật và nguyên nhân xảy ra mâu thuẫn giữa anh L và chị T đúng như chị T đã trình bày ở trên. Nay chị T yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh L thì anh đồng ý ly hôn.

- Về con chung: Anh L và chị T có một người con chung đúng như chị T đã trình bày. Anh L đồng ý giao cháu Phạm Uy V, sinh ngày 29/4/2011 cho chị T nuôi dưỡng và anh L cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000đ (Hai triệu đồng) cho đến khi cháu V đủ 18 tuổi.

- Về tài sản chung: Anh L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Anh L trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

- Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm Phán, Hôị đồng xét xử, Thư ký việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng, trong quá trình giải quyết vụ án: Căn cứ theo quy định tại Điều 28, 35, và 39 Bộ luật tố tụng dân sự, Thẩm phán thụ lý đúng thẩm quyền, Chánh án ra quyết định phân công Thẩm phán, Thư ký, Hội thẩm nhân dân đúng quy định; Thẩm phán xác định tư cách người tham gia tố tụng, tống đạt các văn bản tố tụng của Tòa án, tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Thời hạn chuẩn bị xét xử đúng theo quy định tại Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về việc giải quyết vụ án:

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Các khoản 1 Điều 14, Điều 15, khoản 2 Điều 53, Điều 81, Điều 82 và Điều 83, 84, 110, 116, 117 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điểm a khoản 5, điểm b khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016;

- Về hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Nguyễn Thị T và anh Phạm Trung L.

- Về con chung: Công nhận sự tự nguyện thỏa thuận của chị Nguyễn Thị T và anh Phạm Trung L về việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con. Giao con chung Phạm Uy V, sinh ngày 29/4/2011 cho chị Nguyễn Thị T trực tiếp nuôi dưỡng; anh Phạm Trung L cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000đ (Hai triệu đồng) cho đến khi cháu V đủ 18 tuổi.

- Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị T, anh Phạm Trung L không yêu cầu giải quyết, nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

- Về nợ chung: Chị Nguyễn Thị T, anh Phạm Trung L trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về án phí: Chị Nguyễn Thị T, anh Phạm Trung L phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận định:

- Về tố tụng:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Ngày 26 tháng 8 năm 2019 Tòa án thụ lý vụ án và xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”. Tuy nhiên, qua thu thập tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ có cơ sở xác định quan hệ pháp luật tranh chấp của vụ án là “Tranh chấp về nuôi con, cấp dưỡng nuôi con của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn” theo quy định tại khoản 7 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Bị đơn anh Phạm Trung L có đăng ký hộ khẩu thường trú tại tổ dân phố B, thị trấn B, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi. Căn cứ vào khoản 7 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị T thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi.

- Nội dung vụ án:

[3] Xét thấy chị Nguyễn Thị T và anh Phạm Trung L có tổ chức lễ cưới theo phong tục và chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2010, nhưng đến nay vẫn chưa đăng ký kết hôn. Ủy ban nhân dân xã P, huyện Đ, tỉnh Quảng Ngãi và Ủy ban nhân dân thị trấn B, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi là nơi cư trú của chị T và anh L khi bắt đầu chung sống với nhau cũng xác nhận chị T và anh L chưa thực hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Theo khoản 1 Điều 14 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “ Nam nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng”. Vì vậy, quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị T và anh Phạm Trung L không được pháp luật công nhận là vợ chồng.

[4] Về con chung: Hai người chị T và anh L có một người con chung là Phạm Uy V, sinh ngày 29/4/2011, tại phiên hòa giải ngày 21/9/2018 chị T có nguyện vọng được nuôi cháu V và yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000đ (Hai triệu đồng) cho đến khi cháu V đủ 18 tuổi, anh L cũng đồng ý với yêu cầu của chị T, các bên đương sự đều yêu cầu Tòa án ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận trên. Xét thấy sự thỏa thuận của các đương sự về người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng nuôi con là hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm, không trái đạo đức xã hội, nên cần công nhận sự tự nguyện thỏa thuận của chị T và anh L. Giao cháu V cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng; anh Phạm Trung L cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000đ/tháng (Hai triệu đồng) cho đến khi cháu V đủ 18 tuổi. Anh L có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở, là phù hợp với quy định tại Điều 81, Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[5] Về tài sản chung: Các đương sự không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về nợ chung: Chị T, anh L trình bày không có, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.

[7] Ý kiến của kiểm sát viên về tố tụng và nội dung vụ án là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Về án phí sơ thẩm: Chị T phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Anh L chịu 150.000đ (Một trăm năm mươi ngàn đồng) tiền án phí cấp dưỡng nuôi con.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 7 Điều 28; các Điều 35, 39, 147, 235, 266, 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 14, 15, khoản 2 Điều 53; Điều 81, 82, 83, 84, 110, 116 và Điều 117 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điểm a khoản 5, điểm b khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Nguyễn Thị T và anh Phạm Trung L.

2. Về con chung: Công nhận sự tự nguyện thỏa thuận của chị Nguyễn Thị T và anh Phạm Trung L về việc nuôi con, mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng nuôi con:

- Giao con chung Phạm Uy V, sinh ngày 29/4/2011 cho chị Nguyễn Thị T trực tiếp nuôi dưỡng.

- Anh Phạm Trung L cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000đ/tháng (Hai triệu đồng) cho đến khi cháu V đủ 18 tuổi.

Thời gian cấp dưỡng nuôi con chung tính từ tháng 10 năm 2019.

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự.

Anh Phạm Trung L có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở. Khi cần thiết vì lợi ích của con chung, các bên đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con chung.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị T phải chịu số tiền 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) chị T đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu tiền số 011454 ngày 22 tháng 8 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi. Anh Phạm Trung L chịu 150.000đ (Mt trăm năm mươi ngàn đồng) tiền án phí cấp dưỡng nuôi con.

Trường hợp bản án, Quyết định được Thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (Ngày 22/10/2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

339
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2019/HNGĐ-ST ngày 22/10/2019 về tranh chấp nuôi con, cấp dưỡng nuôi con của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn

Số hiệu:08/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ba Tơ - Quảng Ngãi
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về