Bản án 07/2021/HS-ST ngày 08/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 07/2021/HS-ST NGÀY 08/01/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 08 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 326/2020/TLST-HS ngày 09 tháng 12 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 350/2020/QĐXXST-HS ngày 26/12/2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Thanh H, sinh năm 1990. Tại: An Giang. Nơi ĐKHKTT: Ấp x, xã VX, thị xã TC, tỉnh An Giang. Trình độ học vấn: 02/12. Nghề nghiệp: Không; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Nguyễn Ngọc P và bà Nguyễn Thị V; Bị cáo chưa có vợ, con. Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 12/12/2008, Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang ra quyết định đưa vào cơ sở giáo dục trong thời hạn 24 tháng theo Quyết định số 66/QĐ-UB. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 18/7/2020 đến ngày 21/7/2020 hủy bỏ biện pháp tạm giữ; bắt lại ngày 23/10/2020 và tạm giam cho đến nay; Có mặt.

Bị hại: Ông Trương Văn S, sinh năm 1958. Địa chỉ: Số x1, đường PBC, Khu x2, phường P, thành phố M, tỉnh Bình Dương; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 06 giờ 30 phút ngày 04/7/2020, trong lúc Nguyễn Thanh H điều khiển xe đạp đi trên đường PNT, đoạn thuộc khu 5, phường H, thành phố M, tỉnh Bình Dương thì nhìn thấy xe mô tô hiệu Warm, biển số 61N3-02xx của ông Trương Văn S, sinh năm 1958 đang dựng trước tiệm sửa xe K, địa chỉ tại tổ x3, khu phố x4, phường H và không có người coi giữ nên H nảy sinh ý định lấy trộm xe để bán lấy tiền tiêu xài. Thực hiện ý định trên, H dựng xe đạp vào lề đường cách tiệm sửa xe K khoảng 30 mét rồi đi bộ đến chỗ để xe mô tô mô tô hiệu Warm, biển số 61N3-02xx và dùng tay giật đứt dây điện rồi đạp máy và điều khiển xe mô tô hiệu Warm, biển số 61N3-02xx chạy đến khu vực cầu R, thuộc quận Y, thành phố Hồ Chí Minh bán cho đối tượng nam (không rõ họ tên và địa chỉ cư trú) được số tiền 700.000 (bảy trăm nghìn) đồng. Sau đó, H quay lại đường PNT, phường H, thành phố M để lấy xe đạp và H đã tiêu xài hết số tiền trên.

Đối với ông Trương Văn S quá trình điều tra xác định vào khoảng 06 giờ ngày 04/7/2020 khi ông S đang điều khiển xe mô tô hiệu Warm, biển số 61N3-02xx đi đến căn tin Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Dương để làm việc thì do xe bị hư nên ông S dừng xe trước tiệm sửa xe K để sửa, tuy nhiên do tiệm chưa mở cửa nên ông S để xe lại trước cửa tiệm rồi đi bộ vào Bệnh viện để làm việc. Đến khoảng 06 giờ 40 phút cùng ngày, khi ông S quay lại thì phát hiện xe mô tô hiệu Warm, biển số 61N3-02xx đã bị mất nhưng do bận công việc nên ông S không đi trình báo ngay mà đến ngày 11/7/2020 ông S mới đến Công an phường H để trình báo sự việc.

Ngày 18/7/2020, Nguyễn Thanh H đến Công an phường H để đầu thú về hành vi lén lút chiếm đoạt xe mô tô hiệu Warm, biển số 61N3-02xx của ông Trương Văn S. Cùng ngày, Công an phường H chuyển hồ sơ vụ việc đến Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Thủ Dầu Một để xử lý theo thẩm quyền.

Căn cứ Bản kết luận định giá tài sản số 137/KLTS-TTHS ngày 25/8/2020 của Hội đồng định giá thường xuyên tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Thủ Dầu Một kết luận: 01 (một) xe mô tô hiệu Warm, biển số 61N3-02xx, số máy 308753, số khung 308753 trị giá 2.500.000 (hai triệu năm trăm nghìn) đồng.

Quá trình điều tra, ông Trương Văn S yêu cầu Nguyễn Thanh H phải bồi thường cho ông S số tiền 4.000.000 (bốn triệu) đồng. Hiện tại, bị cáo chưa bồi thường.

Đối với đối tượng nam là người đã mua xe mô tô hiệu Warm, biển số 61N3-02xx của Nguyễn Thành H, do quá trình điều tra đến nay không xác định được họ tên và địa chỉ cư trú cụ thể của đối tượng này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Thủ Dầu Một sẽ tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ để xử lý sau khi có đủ căn cứ.

Cáo trạng số 01/CT-VKS-HS ngày 01/12/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một truy tố bị cáo Nguyễn Thanh H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một trong phần tranh luận, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh H mức hình phạt từ 06 tháng tù đến 09 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo bồi thường cho bị hại số tiền 4.000.000đ (bốn triệu đồng).

Về biện pháp tư pháp: Không đề nghị giải quyết.

Tại phiên tòa, bị cáo, bị hại đều không có ý kiến tranh luận. Trong lời nói sau cùng, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, những chứng cứ đã được thu thập đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản hỏi cung bị can, lời khai của bị hại cùng những tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Với hành vi lén lút chiếm đoạt 01 (một) xe mô tô hiệu Warm có trị giá 2.500.000đ (hai triệu năm trăm nghìn đồng) mà bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017. Bị cáo đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi mà bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ; gây mất trật tự, trị an tại địa phương nơi xảy ra vụ án. Về nhận thức, bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì tham lam mà bị cáo đã bất chấp sự trừng phạt của pháp luật, thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Ngoài ra, bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị áp biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục vào năm 2006. Do đó, cần có mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ mà bị cáo đã thực hiện, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng đồng thời sau khi phạm tội đã đến cơ quan công an đầu thú. Đây là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Căn cứ nhân thân cũng như các tình tiết giảm nhẹ, xét mức hình phạt mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 4.000.000 đồng, bị cáo đồng ý tự nguyện bồi thường nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[7] Về biện pháp tư pháp: Không có.

[8] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 136, 260, 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1/ Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2/ Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh H 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23/10/2020 được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 18/7/2020 đến ngày 21/7/2020.

3/ Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017; Điều 586, 589 của Bộ luật dân sự 2015. Buộc bị cáo bồi thường cho ông Trương Văn S số tiền 4.000.000đ (bốn triệu đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

4/ Về biện pháp tư pháp: Không có.

5/ Về án phí: Buộc bị cáo nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2021/HS-ST ngày 08/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:07/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về