Bản án 07/2019/HS-ST ngày 27/02/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẤT ĐỎ, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 07/2019/HS-ST NGÀY 27/02/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 02 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Đất Đỏ, tỉnh BRVT xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 03/2019/TLST-HS ngày 16 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2019/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo: Trần P sinh năm 1989 tại tỉnh Đồng Nai; Nơi cư trú: ấp 1, xã 2, huyện 3, tỉnh BRVT; nghề nghiệp: thợ hồ; trình độ văn hóa: 06/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần X, sinh năm 1961 và bà Bùi Thị A sinh năm 1963; có vợ là Bùi Thị Hồng L sinh năm 1989 và 02 con, lớn nhất sinh năm 2011 và nhỏ nhất sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giữ từ ngày 14-11-2018 đến ngày 23-11-2018 được thay thế bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. (có mặt)

-Bị hại: Ông Huỳnh Ngọc V, sinh năm 1984 (vắng mặt) và Bà Trịnh Thị Kim H sinh năm 1990 (vắng mặt); Địa chỉ: tổ 2, ấp 1, xã 2, huyện 3, tỉnh BRVT.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 07 giờ ngày 08-11-2018 Trần P đi xe ôm đến xã L, huyện Đ , tỉnh BRVT để tìm việc làm. Đến khoảng 08 giờ cùng ngày khi đi ngang qua bến đò Ba Duyên ở ấp A, xã L, huyện Đ, tỉnh BRVT phát hiện chiếc xe ô tô hiệu THACO, màu xanh, biển số 72C-014.40 đang đậu trên bến đò không có ai trông coi và trên xe có sẵn chìa khóa nên P nảy sinh ý định trộm cắp bán lấy tiền tiêu xài, P đã điều khiển chiếc xe ô tô trên chạy lên tỉnh Bình Phước để bán, tại Bình Phước P bán xe được 15.000.000đ nhưng sau đó trả lại tiền rồi lấy xe về cất giấu tại Bàu Thành thuộc huyện Long Điền. Đến ngày 13-11-2018 P điều khiển chiếc xe trộm cắp đi TPHCM để tìm việc làm nhưng khi đi đến địa phận xã Châu Pha, Thị xã Phú Mỹ thì bị phát hiện nên P bỏ lại xe và chạy về nhà. Đến ngày 14-11-2018 P bị Công an huyện Đất Đỏ bắt giữ.

Tại Biên bản về việc định giá tài sản trong tố tụng hình sự số:43/BB- HĐĐGTTTHS ngày 22-11-2018 và Kết luận định giá tài sản số:43/KLĐGTS- HĐĐG ngày 22-11-2018 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự của huyện Đất Đỏ kết luận trị giá chiếc xe ô tô hiệu THACO, màu xanh biển số 72C-014.40 tại thời điểm bị chiếm đoạt trị giá 47.000.000đ.

Quá trình điều tra Trần P đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Chiếc xe ô tô hiệu THACO, màu xanh, biển số 72C-014.40 đứng tên Trịnh Thị Kim H, là tài sản của ông Huỳnh Ngọc V và bà Trịnh Thị Kim H. Sáng ngày 08-11-2018 ông V chạy xe ra bến đò Ba Duyên để thu mua hải sản như thường ngày, trên xe có 01 cái cân, 04 cái giỏ và 01 cái ky đều là đồ cũ có giá trị nhỏ, trên đường chạy xe lên Bình Phước P đã ném những đồ vật trên dọc đường không nhớ ở đâu. Ông V và bà H đã nhận lại xe và các giấy tờ, sau khi nhận lại tài sản ông V và bà H không có yêu cầu gì và có đơn xin bãi nại cho P.

Tại Bản cáo trạng số: 06/CT-VKS ngày 15-01-2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh BRVT đã truy tố Trần P về tội “Trộm cắp tài sản ” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình và xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đ/d VKS vẫn giữ nguyên quan điểm như đã nêu tại bản cáo trạng, đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản”, áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 BLHS đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo từ 18 ->24 tháng tù, TNDS: xong.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đất Đỏ, tỉnh BRVT, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đất Đỏ, tỉnh BRVT, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo Phi đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với trình bày của bị hại và các chứng cứ của vụ án, xác định vào khoảng 08 giờ ngày 08-11-2018 tại bến đò Ba Duyên thuộc ấp An Hòa, xã Lộc An, huyện Đất Đỏ, tỉnh BRVT lợi dụng sự mất cảnh giác của ông Huỳnh Ngọc V và bà Trịnh Thị Kim H trong việc trông coi, quản lý tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng của mình mà Trần P đã lén lút trộm cắp 01 chiếc xe ô tô hiệu THACO màu xanh biển số 72C-014.41 trị giá 47.000.000đ nên Trần P đã vi phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[3] Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau: chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và bị hại xin bãi nại cho bị cáo quy định tại các điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 nên cũng xem xét giảm nhẹ một phần mức án cho bị cáo khi lượng hình.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không có yêu cầu gì nên trách nhiệm dân sự là xong.

[5] Về án phí: Bị cáo P phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 23, Mục 1, Phần I (Danh mục án phí) Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[6] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo theo luật định.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 173; các điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

- Điểm a khoản 1 Điều 23, Mục 1, Phần II (Danh mục án phí) Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Trần P phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Xử phạt: Bị cáo Trần P 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được khấu trừ thời hạn bị bắt tạm giữ từ ngày 14-11-2018 đến ngày 23-11-2018.

3. Về trách nhiệm dân sự: Xong.

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Trần P phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng).

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo và bị hại có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2019/HS-ST ngày 27/02/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:07/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đất Đỏ - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về