Bản án 07/2019/HS-ST ngày 27/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LÀO CAI, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 07/2019/HS-ST NGÀY 27/02/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 02 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 09/2019/TLST-HS ngày 25 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2019/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:

Lục Trần T

Sinh ngày 18 tháng 10 năm 1994, tại huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai; Nơi cư trú: Xã N, huyện B, tỉnh Lào Cai; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lục Xuân T sinh năm 1971, con bà Trần Thị Thu H sinh năm 1975; Vợ, con: Chưa có; Tiền án: Không, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 13 tháng 12 năm 2018, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 13/12/2018, Lục Trần T đi xe Taxi đến khu vực đường An Dương Vương thuộc phường C, thành phố L mua của một người đàn ông không quen biết 01 gói ma túy Ketamin và 06 viên ma túy kẹo (loại ma túy MDMA) với giá 05 triệu đồng để sử dụng cho bản thân. Sau khi mua được ma túy, Lục Trần T cất số ma túy trên vào túi quần dài phía trước đang mặc rồi tiếp tục đi đến quán Karaoke Diamond thuộc tổ 5, phường P, thành phố L thì bị tổ công tác Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Lào Cai phát hiện và bắt quả tang, thu giữ toàn bộ tang vật.

Tại Kết luận giám định số 23/GĐMT ngày 20/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai kết luận:0,71 gam chất bột khô màu trắng là loại chất ma túy Ketamine.1,92 gam viên nén hình tròn, màu hồng là loại chất ma túy MDMA.

Cơ quan giám định đã trích mẫu 0,21 gam Ketamine và 0,62 gam MDMA để giám định, số ma túy còn lại 0,50 gam Ketamine và 1,30 gam MDMA hoàn trả lại cơ quan đã trưng cầu để giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại bản Cáo trạng số 11/CT-VKSTPLC ngày 24 tháng 01 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai truy tố đối với Lục Trần T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm như cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lục Trần T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Lục Trần T mức án từ 01 năm 06 tháng đến 01 năm 09 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau trích mẫu. Tạm giữ của bị cáo Lục Trần T 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone để đảm bảo thi hành án về án phí hình sự sơ thẩm.

Tuyên án phí và quyền kháng cáo đối với bị cáo theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Lục Trần T thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, bị cáo khai nhận do bản thân nghiện chất ma túy nên có mua số ma túy trên của một người không quen biết về để sử dụng cho bản thân, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo bởi vì bị cáo có nhân thân tốt, có thái độ khai báo thành khẩn, có ông, bà nội được tặng thưởng Huân, Huy chương của nhà nước.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố Lào Cai, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo Lục Trần T tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, biên bản thu giữ vật chứng, phù hợp với Kết luận giám định số 23/GĐMT ngày 20/12/2018 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Do vậy có đủ cơ sở kết luận ngày 13/12/2018, bị cáo Lục Trần T đã có hành vi mua 0,71 gam Ketamine và 1,92 gam MDMA của một người không quen biết tại khu vực đường An Dương Vương thuộc phường C, thành phố L để sử dụng cho bản thân. Với tổng khối lượng của 02 chất ma túy mà bị cáo tàng trữ trên người khi bị bắt có đủ căn cứ xác định bị cáo Lục Trần T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Hành vi của bị cáo Lục Trần T đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước. Do vậy cần phải có một mức án tương xứng với hành vi phạm tội do bị cáo gây ra.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ: Hội đồng xét xử nhận định trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, bị cáo có bà nội là Vũ Thị T được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Ba, ông nội là Lục Văn H được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng Nhất. Do vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về nhân thân và việc áp dụng hình phạt đối với bị cáo: Hội đồng xét xử nhận định bị cáo có nhân thân tương đối tốt, không có tiền án, tiền sự. Vì vậy cần có một mức án phù hợp, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để tiếp tục giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt cho gia đình và xã hội. Xét thấy bị cáo không nghề nghiệp, tài sản, nên không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng: Cơ quan giám định đã trích mẫu 0,21 gam Ketamine và 0,62 gam MDMA để giám định, số ma túy còn lại 0,50 gam Ketamine và 1,30 gam MDMA được niêm phong trong 01 (Một) bì thư, xét thấy đây là vật mà nhà nước cấm tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định pháp luật.

Đối với 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone là tài sản hợp pháp của bị cáo xét thấy cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án theo quy định của pháp luật.

[7] Đối với người đàn ông mà bị cáo khai nhận đã bán ma túy cho bị cáo, quá trình điều tra và tại phiên tòa không làm rõ được lai lịch địa chỉ của đối tượng này do vậy chưa đủ căn cứ để xử lý.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo phải chịu số tiền là 200.000 (Hai trăm nghìn đồng) đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lục Trần T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt Lục Trần T 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13 tháng 12 năm 2018.

Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 1,30 gam MDMA và 0,50 gam Ketamine đựng trong 01 (Một) phong bì thư được tái niêm phong theo đúng quy định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai, trên mặt bì thư có ghi: “Vật chứng còn lại sau trích mẫu giám định thu trong vụ Lục Trần T có hành vi phạm tội về ma túy. Phát hiện (thu giữ) ngày 13 tháng 12 năm 2018 tại tổ 5, phường P, thành phố L, tỉnh Lào Cai”.

Tạm giữ của bị cáo Lục Trần T 01 (Một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone để đảm bảo cho việc thi hành án về án phí hình sự sơ thẩm.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Lục Trần T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2019/HS-ST ngày 27/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:07/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai - Lào Cai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về