Bản án 07/2019/HSST ngày 23/01/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN 2 - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 07/2019/HSST NGÀY 23/01/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 01 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh (số 1400 Đồng Văn Cống, phường Thạnh Mỹ Lợi, Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh) đã xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 74/2018/HSST ngày 12/12/2018 theo Quyết định đưa vụ ra xét xử số 07/2019/ QĐXXST-HS ngày 08/01/2019 đối với các bị cáo:

1. Huỳnh Trọng S, giới tính: Nam; sinh năm: 1992 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Phường H, quận Bình T, Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: Phường H, quận Bình T, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 09/12; nghề nghiệp: Buôn bán; con ông Huỳnh Hoàng P, sinh năm 1963 và bà Lê Thị Mỹ H, sinh năm 1968; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 20/4/2018 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Hoài T, giới tính: Nam; sinh năm: 1991 tại Bình Phước; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: xã T, thị xã X, tỉnh Bình Phước; nơi cư trú: Không có nơi ở nhất định; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 06/12; nghề nghiệp: Nhân viên giao hàng; cha không rõ, con bà Nguyễn Thị Thu Đ; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 20/4/2018 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 10 giờ 30 phút ngày 20/4/2018, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Công an Quận 2, tuần tra trên đường Quốc Hương, phường Thảo Điền, Quận 2, khi đến trước Tòa nhà Thảo Điền Pearl, phát hiện Nguyễn Hoài T điều khiển xe gắn máy biển số 59Y1- 024.41 chở Huỳnh Trọng S có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe kiểm tra phát hiện trong túi quần trước bên trái của S có cất dấu 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, nghi là ma túy, nên mời về Công an phường Thảo Điền, Quận 2 làm rõ.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an Quận 2 Huỳnh Trọng S khai nhận, S bán ma túy được khoảng một năm nay tính đến lúc bị bắt, nguồn ma túy S mua của một người tên Hà tại quận Gò Vấp và đối tượng tên Loan (chưa rõ lai lịch) về phân lẻ, bán cho các đối tượng nghiện kiếm lời. S mua ma túy của Hà được 2 lần mỗi lần mua 01 gói ma túy đá giá 4.800.000 đồng về bán lại thu lợi 1.000.000 đồng; mua của Loan 05 lần mỗi lần 5.000.000 đồng về phân lẻ bán lại thu lợi 800.000 đồng. Tổng thu lợi từ việc S bàn ma túy từ khi bắt đầu bán đến khi bị bắt là 6.000.000 đồng.

S bán ma túy cho Nguyễn Hoài T được 03 lần, mỗi lần bán 01 gói ma túy đá, giá 200.000 đồng. Khoảng đầu tháng 4/2018, S cho T đến ở chung tại địa chỉ Phường H, quận Bình Thạnh, S không lấy tiền nhà, tiền ăn của T mà để T phụ S đi bán ma túy và cho ma túy để T sử dụng. Khoảng 09 giờ ngày 20/4/2018, một người tên Nguyên (chưa rõ lai lịch) gọi điện cho S đặt mua ma túy đá với giá 5.800.000 đồng, hẹn gặp nhau giao dịch tại trước siêu thị trên đường Quốc Hương, phường Thảo Điền, Quận 2. S gặp Hà mua 01 gói ma túy đá với giá 4.800.000 đồng rồi đi về nhà để Nguyễn Hoài T, dùng xe gắn máy biển số 59Y1-024.41 chở S đi đến trước siêu thị bên cạnh Cao ốc Thảo Điền Pearl, số 12, Quốc Hương, phường Thảo Điền, Quận 2 thì bị phát hiện bắt quả tang. Trước đó S đã bán ma túy cho Nguyên được 01 lần, vào ngày 12/4/2018 S bán cho Nguyên 01 gói ma túy đá, giá 400.000 đồng. ngoài ra S còn bán ma túy cho nhiều người khác tại khu vực Cư xá Thanh Đa, quận Bình Thạnh, trong đó bán cho Trần Quốc T (sinh năm: 1997) được 02 lần, mỗi lần 300.000 đồng, bán cho Đặng Hoàng M (sinh năm: 1986) được 4 đến 5 lần, mỗi lần 200.000 đồng, bán cho Đặng Sỹ T 05 lần, mỗi lần 400.000 đồng.

Nguyễn Hoài T khai nhận: T là bạn của S, mua ma túy của S để sử dụng được 03 lần, mỗi lần 200.000 đồng. Đến đầu tháng 4 năm 2018, T xin về ở chung với S để phụ S bán quần áo, ngoài ra T phụ S đi bán ma túy hoặc chở S đi mua, bán ma túy và được S trả công bằng việc cho ăn, ở chung không phải đóng tiền, được S cho ma túy để sử dụng. Khoảng 10 giờ ngày 20/4/2018, T đang ở nhà thì S đi về nói T lấy xe gắn máy chở S qua khu vực chân cầu Sài Gòn, quận 2 để bán ma túy. T lấy xe gắn máy biển số 59Y1-024.41 chở S đi qua Quận 2, đến địa điểm nêu trên thì bị bắt quả tang. Ngoài ra T còn nhiều lần chở S đi mua ma túy trên đường Nguyễn Văn Nghi, quận Gò Vấp và phụ S bán ma túy cho nhiều người khác đến nhà của S mua ma túy. Qua xét nghiệm, T dương tính với chất ma túy.

Vật chứng thu giữ:

- 01 (một) gói nylon chứa tinh thể không màu, thu giữ của S.

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu hồng;

- 01 điện thoại di động hiệu Sony màu trắng;

Đây là những vật chứng liên quan đến vụ án Cơ quan điều tra đã chuyển qua Cơ quan Thi hành án dân sự chờ Tòa quyết định.

- 1.000.000 đồng, tiền cá nhân do S buôn bán áo quần mà có, tạm giữ để đảm bảo thi hành án;

- 01 xe gắn máy Yamaha, biển số 59Y1-024.41, xe do anh Đỗ Hoàng S đứng tên chủ sở hữu, anh S không biết T sử dụng xe vào việc bán ma túy do đó Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 2 đã trả lại xe cho anh S.

Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Huỳnh Trọng S tại Phường H, quận T thu giữ:

- 01 gói nylon chứa tinh thể không màu;

- 01 cân tiểu ly màu đen;

- 30 gói nylon rỗng;

- 01 cây kéo bằng kim loại;

Đây là những vật chứng liên quan đến vụ án Cơ quan điều tra đã chuyển qua Cơ quan Thi hành án dân sự chờ Tòa quyết định.

- 01 Ipad màu vàng Gold;

- 01 xe gắn máy Yamaha, biển số 59M1-762.15.

Các tài sản này là của bà Lê Thị Mỹ H, bà H không biết S dùng vào việc mua bán ma túy nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 2 đã trả lại cho bà H.

Tại Kết luận giám định số 778 ngày 27/4/2018 của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh, 01 gói nylon chưa tinh thể không màu thu giữ trên người S là ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine, khối lượng 9,2294g.

Theo Kết luận giám định số 782 ngày 27/4/2018 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh thì 01 gói nylon chưa tinh thể không màu thu giữ tại nơi ở của S là ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine, khối lượng 0,1442g.

Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình như trên, các bị cáo đồng ý với các kết luận giám định và không có ý kiến gì khác. Đối với việc xử lý vật chứng của vụ án, các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật và không có ý kiến gì thêm.

Bản Cáo trạng số 68/CTr-VKS ngày 23 tháng 11 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 2 đã truy tố các bị cáo Huỳnh Trọng S và Nguyễn Hoài T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, c, i Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận:

Hunh Trọng S và Nguyễn Hoài T đã có hành vi nhiều lần mua bán trái phép chất ma túy. S nhiều lần mua ma tuý của Vũ Thái H và người phụ nữ tên Loan (chưa rõ lai lịch) về bán ma túy cho nhiều người trong đó, S bán cho Nguyễn Hoài T 03 lần, mỗi lần 200.000 đồng, bán cho đối tượng tên Nguyên 02 lần, lần một 400.000 đồng, lần hai 5.800.000 đồng, bán cho Trần Quốc T 02 lần, mỗi lần 300.000 đồng, bán cho Đặng Hoàng M 4 đến 5 lần, mỗi lần 200.000 đồng, bán cho Đặng Sỹ T 05 lần, mỗi lần 400.000 đồng và các người nghiện khác (chưa rõ lai lịch), thu lợi bất chính 6.000.000 đồng. Nguyễn Hoài T có hành vi mua ma túy của S để sử dụng và phụ giúp S bán ma túy và chở S đi mua bán ma túy nhiều lần để được S cho ma túy sử dụng và ăn, ở không phải trả tiền. Thu giữ của S và T 9,3736g Methamphetamine và nhiều dụng cụ dùng để phân lẻ ma túy, do đó hành vi của Huỳnh Trọng S và Nguyễn Hoài T đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” đề nghị xử lý nghiêm.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay các bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải, các bị cáo phạm tội lần đầu nhân thân chưa có tiền án tiền sự đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt theo điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 2 giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm b, c, i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Trọng S từ 08 đến 10 năm tù.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hoài T từ 07 đến 09 năm tù.

Đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo S phải nộp lại số tiền 6.000.000 đồng là tiền thu lợi bất chính từ việc mua bán trái phép chất ma túy để sung quỹ Nhà nước.

Các bị cáo không tranh luận và nói lời sau cùng:

Bị cáo S: Bị cáo rất ăn năn xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo T: Bị cáo rất ăn năn xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về hành vi:

Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, các bị cáo đã mua một lượng ma túy loại Methamphe- tamine để phân nhỏ bán lại cho các con nghiện nhằm kiếm lời phục vụ cho nhu cầu của bản thân mình. Vụ án có đồng phạm, trong đó bị cáo S là người trực tiếp đi mua ma túy là người chủ mưu, cầm đầu, bị cáo T là đồng phạm khi chở S đi mua ma túy và giúp sức tích cực trong việc bán ma túy cho các con nghiện.

Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định ... và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở kết luận hành vi của các bị cáo đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điều 251 Bộ luật Hình sự như kết luận của Kiểm sát viên.

Hi đồng xét xử đánh giá tính chất vụ án là nghiêm trọng. Bản thân các bị cáo là công dân, biết rất rõ tác hại của ma tuý và đường lối xử lý của pháp luật. Song do muốn có tiền để thỏa mãn cơn nghiện và thỏa mãn các nhu cầu khác mà không phải lao động các bị cáo vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội, gieo rắc cái chết trắng đến với nhiều người. Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất gây nghiện, tiếp tay cho tệ nạn ma tuý ngày càng phát triển, là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an xã hội. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố các bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Cần phải xử phạt các bị cáo mức án nghiêm như Đại diện Viện kiểm sát đã đề nghị, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian dài mới có tác dụng phân loại tội phạm, giáo dục các bị cáo nói riêng và đảm bảo việc đấu tranh, răn đe, phòng chống tội phạm nói chung trong xã hội.

Về tình tiết tăng nặng định khung hình phạt:

Hành vi của các bị cáo đã vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng hình phạt là phạm tội 02 lần trở lên, đối với 02 người trở lên và lượng Methampheta- mine có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam được quy định tại điểm b, c, i khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, nên cần phải áp dụng với các bị cáo khi lượng hình.

Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự khác. Xét trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, các bị cáo phạm tội lần đầu, nhân thân chưa có tiền án tiền sự nên áp dụng quy định tại điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Xét các bị cáo có hoàn cảnh khó khăn nên miễn hình phạt là phạt tiền đối với các bị cáo.

Cần buộc bị cáo S nộp lại 6.000.000 đồng là tiền thu lợi bất chính để tịch thu sung quỹ Nhà nước theo quy định.

Về vật chứng:

Đi với: 01 (một) gói niêm phong mã vụ 778/18/Q2 bên ngoài có chữ ký của đối tượng S, Điều tra viên Trần Đức Minh, Giám định viên Nguyễn Tấn Quốc và hình dấu Công an phường Thảo Điền, Quận 2, bên trong gói nylon có chứa ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine. Khối lượng còn lại sau giám định là 9,0150 gam;

01 (một) gói niêm phong mã vụ 782/18/Q2 bên ngoài có chữ ký của đối tượng S, Điều tra viên Phạm Trung Kiên, Giám định viên Phan Hoàng Trạc và hình dấu Công an phường 27, quận Bình Thạnh, bên trong gói nylon có chứa ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine. Khối lượng còn lại sau giám định là 0,1136 gam; 01 cân tiểu ly màu đen; 30 gói nylon rỗng; 01 cây kéo bằng kim loại. Xét đây là chất cấm lưu hành và là các công cụ phương tiện phạm tội không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

Đi với: 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu hồng; 01 điện thoại di động hiệu Sony màu trắng. Xét đây là công cụ dùng vào việc phạm tội nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Đi với: 1.000.000 đồng, tiền cá nhân do S buôn bán áo quần mà có. Xét đây là tài sản riêng của bị cáo S và không liên quan đến vụ án nên trả lại cho bị cáo S.

Đi với đối tượng tên Hà bán ma túy cho S, qua xác minh xác định được tên thật là Vũ Thái H, sinh năm 1983, trú tại số Phường N, quận V, đã tiến hành cho S nhận dạng H, tuy nhiên hiện nay H bỏ đi khởi nơi cư trú, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 2 chưa làm việc được với Hà, nên tiếp tục làm rõ, xử lý sau.

Đi với đối tượng tên Loan (chưa rõ lai lịch) bán ma túy cho S, Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an Quận 2 tiếp tục điều tra, làm rõ xử lý sau.

Đi với đối tượng tên Nguyên (chưa rõ lai lịch) mua ma túy của S, Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an Quận 2 tiếp tục điều tra, làm rõ xử lý sau.

Các bị cáo phải nộp án phí và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ nêu trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Huỳnh Trọng S, Nguyễn Hoài T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm b, c, i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

Điều 17; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Trọng S 08 (tám) năm tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 20/4/2018.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hoài T 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 20/4/2018.

Buộc bị cáo S phải nộp lại số tiền 6.000.000 đồng là tiền thu lợi bất chính từ việc mua bán trái phép chất ma túy để sung quỹ Nhà nước.

Kể từ ngày Cơ quan Thi hành án chủ động ra quyết định thi hành án, nếu bị cáo không thi hành các khoản nêu trên, thì hàng tháng các bị cáo phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và Điều 468 Bộ luật Dân sự tương ứng với thời gian và số tiền chậm thi hành án.

2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) gói niêm phong mã vụ 778/18/Q2 bên ngoài có chữ ký của đối tượng S, Điều tra viên Trần Đức Minh, Giám định viên Nguyễn Tấn Quốc và hình dấu Công an phường Thảo Điền, Quận 2, bên trong gói nylon có chứa ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine. Khối lượng còn lại sau giám định là 9,0150 gam; 01 (một) gói niêm phong mã vụ 782/18/Q2 bên ngoài có chữ ký của đối tượng S, Điều tra viên Phạm Trung Kiên, Giám định viên Phan Hoàng Trạc và hình dấu Công an phường 27, quận Bình Thạnh, bên trong gói nylon có chứa ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine. Khối lượng còn lại sau giám định là 0,1136 gam; 01 cân tiểu ly màu đen; 30 gói nylon rỗng; 01 cây kéo bằng kim loại..

+ Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu hồng; 01 điện thoại di động hiệu Sony màu trắng + Trả lại cho bị cáo S: 1.000.000 đồng, tiền cá nhân của S.

(Theo Quyết định chuyển vật chứng số 01/QĐ-VKS ngày 06/12/2018 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 2).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng về án phí, lệ phí Tòa án:

Buộc các bị cáo mỗi bị cáo nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. “Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

4. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2019/HSST ngày 23/01/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:07/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 2 (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về