Bản án 05/2021/HS-ST ngày 29/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TAM ĐIỆP, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 05/2021/HS-ST NGÀY 29/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tam Điệp, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 03/2021/TLST-HS ngày 08 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2021/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn S – Sinh ngày 01 tháng 02 năm 1974 tại huyện Nh, tỉnh Ninh Bình; Nơi cư trú: thôn Q, xã Q, huyện Nh, tỉnh Ninh Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa 5/12; dân tộc: Mường; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn V (đã chết) và con bà Bùi Thị Y; bị cáo có vợ và có 03 con; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Tại bản án số 24/2012/HSST ngày 17/4/2012 của TAND huyện Nh, tỉnh Ninh bình xử phạt Nguyễn Văn S 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, chấp hành xong bản án ngày 29/4/2016.

Bị bắt tạm giữ từ ngày 10/10/2020 đến ngày 13/10/2020 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình. Hiện đang chấp hành Quyết định tạm giam số 03/2021/HSST-QĐTG ngày 15/01/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình (Có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn Sơn:

- Bà Bùi Thị Thanh T – Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Ninh Bình; vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt)

- Ông Bùi Văn T – Luật sư văn phòng luật sư B – Luật sư ký hợp đồng trợ giúp pháp lý với Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Ninh Bình; Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Bùi Thị L, sinh năm: 1990;

Địa chỉ: thôn Q, xã Q, huyện Nh, tỉnh Ninh Bình; (vắng mặt).

- Người làm chứng: Ông Phạm Văn S, sinh năm: 1971; (vắng mặt) Anh Nguyễn Như S, sinh năm: 1993; (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 09 giờ 50 phút ngày 10/10/2020, tổ công tác của Công an xã Y, thành phố T tuần tra đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn xã. Khi đến Km 05 Quốc lộ 12B thuộc thôn Y, xã Y, thành phố T, tỉnh Ninh Bình, tổ công tác phát hiện có 01 người đàn ông lạ mặt đang đứng một mình cạnh xe mô tô biển kiểm soát 35B1 - 168.36 đỗ bên lề đường bên phải (hướng Tam Điệp – Nho Quan) có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy, nên đã đến yêu cầu kiểm tra. Quá trình kiểm tra, người đàn ông này không xuất trình được giấy tờ tùy thân, khai tên là Nguyễn Văn S. Tại chỗ, S đã giao nộp cho tổ công tác 01 gói giấy bạc nhỏ màu vàng đang cầm trên tay phải, trong gói giấy có chất bột dạng cục màu trắng, S khai đó là gói heroine của S vừa mua được của một người đàn ông không quen biết xưng tên là Kh với giá 200.000 đồng, với mục đích đem về sử dụng cho bản thân. Đồng thời S lấy từ túi quần bên phải ra 01 xi lanh loại 03ml (chưa qua sử dụng) giao nộp cho cơ quan Công an. Tổ công tác đã niêm phong vật chứng thu giữ và đưa Nguyễn Văn S về trụ sở Công an xã Y lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, sau đó chuyển đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T giải quyết theo thẩm quyền.

Tại trụ sở Công an thành phố T, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T đã tiến hành mở niêm phong, cân xác định khối lượng vật chứng thu giữ. Kết quả cân chất bột dạng cục màu trắng thu giữ có khối lượng là 0,22 gam (ký hiệu M), niêm phong lại và gửi mẫu vật thu giữ trưng cầu giám định.

Tại bản kết luận giám định số 275/KLGĐ-PC09-MT ngày 13/10/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận:

“ Mẫu chất bột dạng cục màu trắng gửi giám định ký hiệu M có khối lượng 0,2200 (không phẩy, hai nghìn hai trăm) gam, là ma túy, loại Heroine.

Heroine là chất ma túy thuộc Danh mục I, số thứ tự 9, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ”.

Quá trình điều tra, bị cáo Nguyễn Văn S đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại bản Cáo trạng số 04/CT – VKS ngày 07 tháng 01 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn S ra trước Tòa án nhân dân thành phố Tam Điệp để xét xử về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp tại phiên tòa sau khi phân tích đánh giá tính chất vụ án, xem xét hậu quả do hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự .

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn S từ 18 (Mười tám) đến 21 (Hai mươi mốt) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ bị cáo là ngày 10/10/2020.

- Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp:

Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy + 01 (một) phong bì giấy dán kín niêm phong còn nguyên vẹn, bên ngoài ghi: 01 (một) mảnh giấy bạc màu vàng kích thước (8 x 7,5) cm; 01 (một) vỏ phong bì niêm phong ban đầu vụ Nguyễn Văn S.

+ 01 (một) phong bì giấy dán kín niêm phong còn nguyên vẹn, bên ngoài ghi: Vật chứng thu giữ của Nguyễn Văn S, sinh năm 1974, ngày 10/10/2020; 01 (một) chiếc xilanh nhựa màu trắng, loại 0,3ml.

+ 01 (một) phong bì giấy dán kín niêm phong còn nguyên vẹn bên ngoài ghi số: 275/KLGĐ-PC09-MT. Mẫu vật hoàn trả gồm: M = 0,1259 gam là ma túy loại Heroine, toàn bộ vỏ bao gói niêm phong.

Tại phiên tòa người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn S trình bày: Đối với hành vi của bị cáo Nguyễn Văn S đã rõ: Về tội danh và khung hình phạt mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp truy tố bị cáo tôi không có ý kiến gì, việc truy tố là đúng người, đúng tội.

Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tôi đồng tình với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát, đề nghị cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Do bị cáo có trình độ văn hóa bị cáo thấp, là người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn nên nhận thức pháp luật có phần hạn chế do tác động xấu của xã hội; Sau khi kiểm tra bị cáo tự nguyện giao nộp gói ma túy. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng thêm điểm r, khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, điều 12 nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất và xem xét miễn án phí cho bị cáo Nguyễn Văn S để bị cáo yên tâm cải tạo sớm trở về với gia đình và xã hội.

Trong quá trình điều tra, ông Phạm Văn S trình bày: Khoảng 9 giờ 50 phút ngày 10/10/2020 ông đi qua đoạn đường QL 12B thuộc thôn Y, xã Y, thành phố T thì ông thấy có một người đàn ông đang đứng cạnh một chiếc xe máy ở lề đường bên tay phải theo chiều hướng đi của ông. Cùng lúc này ông thấy lực lượng Công an đang đi đến người đàn ông này, ông đi lại gần để xem thì lực lượng Công an mời ông làm chứng việc kiểm tra người đàn ông, đồng thời ông thấy lực lượng Công an mời thêm anh Nguyễn Như S làm chứng việc kiểm tra, ông thấy người đàn ông chấp hành yêu cầu kiểm tra và khai báo tên là Nguyễn Văn S, sinh năm 1974 ở tại thôn Q, xã Q, huyện Nh, tỉnh Ninh Bình. S không xuất trình được giấy tờ gì và khai nhận là người nghiện Heroine, đồng thời ông thấy S giao nộp một gói nhỏ giấy bạc màu vàng mà S đang cầm ở trên tay phải cho lực lượng Công an và khai nhận bên trong có chất bột dạng cục màu trắng là Heroine S vừa mua để sử dụng. Lực lượng Công an đã thu giữ tiến hành kiểm tra gói nhỏ bọc giấy bạc màu vàng, bên trong có chất dạng cục màu trắng và niêm phong đồng thời lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Tại cơ quan điều tra, lực lượng công an mở niêm phong cân xác định khối lượng chất bột dạng cục màu trắng, kiểm tra dấu vết trên thân thể của Nguyễn Văn S.

Người làm chứng là anh Nguyễn Như S cũng khai nhận đã được Công an mời làm chứng việc Công an tiến hành kiểm tra, thu giữ ma túy của bị cáo, sau đó lập biên bản niêm phong số ma túy đã thu giữ và đưa bị cáo về trụ sở Công an xã Y, thành phố T, tỉnh Ninh Bình lập biên bản bắt người phạm tội quả tang với nội dung sự việc đúng như bản cáo trạng đã nêu.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi bị truy tố như bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp. Bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát về tội danh, hình phạt và nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét xử phạt bị cáo mức án thấp nhất để yên tâm cải tạo sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra, Điều tra viên và Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của người làm chứng; vật chứng đã thu giữ; Kết luận giám định số: 275/KLGĐ-PC09-MT ngày 13/10/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ để kết luận: Khoảng 09 giờ 50 phút ngày 10/10/2020, tại Km 05 Quốc lộ 12 B thuộc thôn Y, xã Y, thành phố T, tỉnh Ninh Bình, Nguyễn Văn S đã có hành vi cất giữ trái phép trong người 0,2200 (không phẩy, hai nghìn hai trăm) gam ma túy loại Heroine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân bị Công an xã Y, thành phố T phát hiện bắt quả tang đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 249 “ Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

a) ...;

c) Heroin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA. XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

Hành vi phạm tội của bị cáo mang tính chất nghiêm trọng, nó không những đã trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của chính bản thân bị cáo mà còn ảnh hưởng đến trật tự trị an trên địa bàn thành phố T, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân về tệ nạn xã hội nói chung và tệ nạn ma túy nói riêng. Mặt khác xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước đối với chất ma túy. Do đó cần phải xử lý nghiêm minh đối với bị cáo đồng thời góp phần phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[4] Về nhân thân: Bị cáo Nguyễn Văn S đã từng bị kết án về tội mua bán trái phép chất ma túy.

[5] Xét tính chất hành vi phạm tội, khối lượng và loại chất ma túy mà bị cáo tàng trữ, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo. Hội đồng xét xử thấy cần phải áp dụng một mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo và phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ nghiêm để giáo dục cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ ma túy để sử dụng không nhằm mục đích kiếm lời. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Nguyễn Văn S.

[7] Về nguồn gốc ma túy, số Heroine, Nguyễn Văn S khai nhận; vào sáng ngày 10/10/2020, do có nhu cầu sử dụng heroine nên Nguyễn Văn S đi xe mô tô biển kiểm soát 35B1-168.36 từ xã Q, huyện Nh đến khu vực đập Sòng Cầu thuộc thôn Đ, xã Y, thành phố T gặp và mua được của một người bạn tên là Kh 01 gói heroine được bọc ngoài bằng giấy bạc màu vàng với giá 200.000đ (hai trăm nghìn đồng). S không xác định được chính xác họ tên đệm, tuổi, địa chỉ cụ thể của người này. Do vậy không có cơ sở để điều tra, xác minh, xử lý theo quy định của pháp luật.

[8] Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp:

Đối với 01 (một) phong bì giấy dán kín niêm phong còn nguyên vẹn, bên ngoài ghi: 01 (một) mảnh giấy bạc màu vàng kích thước (8 x 7,5) cm; 01 (một) vỏ phong bì niêm phong ban đầu vụ Nguyễn Văn S; 01 (một) phong bì giấy dán kín niêm phong còn nguyên vẹn, bên ngoài ghi: Vật chứng thu giữ của Nguyễn Văn S, sinh năm 1974, ngày 10/10/2020; 01 (một) chiếc xilanh nhựa màu trắng, loại 0,3ml; 01 (một) phong bì giấy dán kín niêm phong còn nguyên vẹn bên ngoài ghi số: 275/KLGĐ-PC09-MT. Mẫu vật hoàn trả gồm: M = 0,1259 gam là ma túy loại Heroine, toàn bộ vỏ bao gói niêm phong cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp với điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Đối với 01 chiếc xe môtô BKS: 35B1-168.36 thu giữ của Nguyễn Văn S. Quá trình điều tra xác định chiếc xe môtô trên là tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của chị Bùi Thị L là em họ của Nguyễn Văn S cho S mượn. Việc S sử dụng chiếc xe máy trên đi mua ma túy chị L không biết, do vậy chị L không vi phạm pháp luật. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Tam Điệp đã trả lại chiếc xe môtô BKS: 35B1-168.36 cho chị Bùi Thị L là đúng quy định của pháp luật.

[9] Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định song bị cáo thuộc dân tộc thiểu số sống trong vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, tại phiên tòa bị cáo đề nghị xin được miễn án phí hình sự sơ thẩm. Việc đề nghị của bị cáo là chính đáng do đó cần áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án để miễn án phí cho bị cáo.

[10] Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

- Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, điểm a, c khoản 2, điểm Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự:

- Căn cứ cứ điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1/ Tuyên bố:

Bị cáo Nguyễn Văn S phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn S 19 (Mười chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ bị cáo là ngày 10 tháng 10 năm 2020.

2/ Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp:

- Tịch thu tiêu hủy + 01 (một) phong bì giấy dán kín niêm phong theo đúng thủ tục pháp luật còn nguyên vẹn, bên ngoài ghi: 01 (một) mảnh giấy bạc màu vàng kích thước (8 x 7,5) cm; 01 (một) vỏ phong bì niêm phong ban đầu vụ Nguyễn Văn S.

+ 01 (một) phong bì giấy dán kín niêm phong theo đúng thủ tục pháp luật còn nguyên vẹn, bên ngoài ghi: Vật chứng thu giữ của Nguyễn Văn S, sinh năm 1974 ngày 10/10/2020; 01 (một) chiếc xilanh nhựa màu trắng, loại 0,3ml.

+ 01 (một) phong bì giấy dán kín niêm phong theo đúng thủ tục pháp luật còn nguyên vẹn bên ngoài ghi số: 275/KLGĐ-PC09-MT, vụ Nguyễn Văn S, sinh năm 1974, trú tại xã Q, huyện Nh, tỉnh Ninh Bình xảy ra ngày 10/10/2020 tại xã Y, thành phố T, tỉnh Ninh Bình. Mẫu vật hoàn trả gồm: M = 0,1259 gam là ma túy loại Heroine, toàn bộ vỏ bao gói niêm phong.

Nhng vật chứng trên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T đã chuyển cho Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 07 tháng 01 năm 2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T.

3/Về án phí:

Miễn 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Nguyễn Văn S.

Án xử công khai sơ thẩm bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 của Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2021/HS-ST ngày 29/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:05/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tam Điệp - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về